Thứ Ba, 22 tháng 2, 2011

Liễu Hạnh Công Chúa





Tại các điện thờ Mẫu, trường hợp đặt ba pho tượng nữ, cùng giống nhau ở gương mặt, vóc giáng, tư thế ngồi, và chỉ khác nhau ở trang phục, thì pho tượng ở giữa chính là tượng Thánh Mẫu, hay còn gọi là Mẫu Liễu.
Nếu điện chỉ đặt một pho tượng nữ đó cũng là Thánh Mẫu, và được hiểu là Mẫu của tất cả. Trong trường hợp này, Thánh Mẫu bao gồm cả Mẫu Liễu, Mẫu Thượng Ngàn và Mẫu Thoải, được biểu hiện trong một Mẫu.
Không giống như Mẫu Thượng Ngàn và Mẫu Thoải, có nguồn gốc lai lịch từ rất xưa, Mẫu Liễu chỉ xuất hiện mới ngoài hai trăm năm nay, và có lẽ chính vì vậy, nên lai lịch, hành tung của Mẫu được truyền tụng và ghi chép lại khá đầy đủ. Và tỉ mỉ nữa là khác.
Nữ sĩ Đoàn Thị Điểm thời Lê mạt, đã có hẳn một truyện "Vân Cát thần nữ" trong cuốn "Truyền kỳ tân phả". Còn trong dân gian, từ trước đến nay, đã có biết bao nhiêu chuyện thật hấp dẫn, ly kỳ, thậm chí rùng rợn, về xuất xứ, hành tung, về biểu hiện khắp mọi nơi của Mẫu, tưởng chừng như Mẫu lúc nào cũng có mặt ở đâu đó, xuất kỳ bất ý, can dự vào tất cả mọi chuyện. Những chuyện này không tồn tại dưới dạng hoàn chỉnh, mà chỉ là những mẩu, có khi gắn kết vào nhau, lại có khi mâu thuẫn trái ngược nhau.
Nhìn chung, trong dân gian, đa phần muốn tin rằng đã có một Mẫu toàn năng, là niềm tin, là chỗ dựa tinh thần của tất cả mọi người. Còn là sự khuyến thiện trừng ác trong mỗi con người.
Không thể hình dung nổi, trong một xã hội, dù là văn minh đến đâu, người ta đối xử với nhau lại không xuất phát từ lòng thiện.
Và trong đời mỗi một con người, không phải ai và lúc nào cũng đều cứng cỏi cả. Vì vậy, sự tồn tại một điểm dựa tinh thần, chung cho mọi người, sẽ không thể là điều vô ích.
Truyền thuyết về Thánh Mẫu được kể dưới đây, sẽ gồm cả truyện "Vân Cát thần nữ" và các câu chuyện kể dân gian, được ghép nối vào nhau sao cho có hệ thống, chúng tôi nghĩ, đấy là cách tốt nhất để tạo nên hình tượng một Thánh Mẫu hoàn chỉnh, xứng đáng với niềm tin của mọi người. Do vậy, những chi tiết nào làm phương hại đến tính thống nhất của hình tượng, hoặc quá ư rườm rà, ... chúng tôi sẽ mạnh dạn loại bỏ.
Tại thôn An Hải, xã Vân Cát, huyện Thiên Bản, hạt Sơn Nam Hạ, nay là huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Hà, có vợ chồng Lê Thái Công là người hiền đức, hay làm việc thiện. Ông bà đã có một con trai, và khi ấy cũng đã đứng tuổi. Đến năm Thiên Hựu, đời Lê Anh Tông, bà vợ có mang đã quá kỳ sinh mà không thấy chuyển dạ, lại không ăn uống, chỉ ưa trong phòng có mùi hoa thơm.
Đêm hôm ấy, gia đình làm lễ, cầu trời khấn Phật, phù hộ độ trì cho mẹ tròn con vuông. Giữa lúc hương hoa tỏa bay thơm ngát, ở trong phòng, Lê Thái Công nằm mơ thấy mình bay lên thượng giới, rồi được dẫn vào một tòa lâu đ ài nguy nga tráng lệ, ở đó đang diễn ra cuộc Đại khánh tiết, bách thần làm lễ chúc thọ Ngọc Hoàng.
Một tiên nữ vận áo xiêm màu hồng nhạt, từ hậu cung bưng khay rượu bước ra. Vừa đến trước mặt Ngọc Hoàng, trong khi hai tay nâng khay, còn đầu thì khẽ nghiêng và toàn thân nhún xuống, nhưng do làm hơi vội nên đã để một chiếc chén rơi ra ... Ngọc Hoàng khẽ chau mày, nhưng rồi trước mặt triều thần, Ngài lại tươi cười nhắc chén rượu thứ hai ...
Chỉ có như vậy, nhưng đã là phạm luật. Sau bữa tiệc, hai vị Nam Tào Bắc Đẩu tâu lên, tiên nữ bị giáng xuống trần, trong thời hạn ba năm, mặc dù đó chính là con gái út của Ngọc Hoàng Thượng đế.
Vừa lúc ấy, Lê Thái Công tỉnh giấc. Cũng đúng lúc ấy, người nhà vào báo bà vợ đã sinh một ngườøi con gái. Ba ngày sau, khi nhìn mặt con, thấy nét mặt giống nàng tiên nữ bưng khay rượu trong bữa tiệc chúc thọ Ngọc Hoàng, ông bèn đặt tên cho con là Giáng Tiên.
Ngày tháng qua đi, càng lớn lên Giáng Tiên càng lộng lẫy, xinh đẹp. Mọi việc nữ công gia chánh nàng cũng đều thành thạo. Lại có cả tài cầm kỳ thi họa, vì ông bà cho nàng theo học Trần Công, một người bạn ở làng bên, và càng học lên Giáng Tiên lại càng giỏi giang, tấn tới.
Ông Trần Công là một vị hưu quan ở làng Tiên Hương, cùng trong huyện Thiên Bản. Vợ chồng ông cũng đã đứng tuổi mà chưa có con. Một đ êm, nghe có tiếng trẻ khóc ở ngoài vườn, ông bà cùng chạy ra thấy một đứa bé sơ sinh nằm dướùi gốc cây đ ào. Ông bà đem về nhà nuôi, đặt tên là Đào Lang.
Lớn lên Đào Lang là một chàng trai khôi ngô tuấn tú, siêng năng chăm chỉ học hành. Do đã đính ước với nhau từ nhiều năm trước, nên khi Đào Lang và Giáng Tiên đến tuổi trưởng thành, hai bên cha mẹ đã cho đôi trẻ nên duyên vợ chồng.
Về nhà chồng, Giáng Tiên là một người vợ hiền dâu thảo, nói năng khiêm nhường, đối xử có trước có sau. Trong ba năm, nàng sinh được một trai, một gái. Giữa lúc cả gia đình đang đầm ấm vui vẻ thì bỗng nhiên, vào đúng ngày mồng ba tháng ba (ÂÂm lịch), tuyệt nhiên không bệnh tật gì, nàng hóa, lúc ấy vừa tròn 21 tuổi. Cả hai bên cha mẹ và chồng con đau xót tiếc thương nhưng chẳng có cách gì cứu sống được. Trong nỗi buồn vô hạn, kể cả Lê Thái Công, chẳng ai hiểu được lẽ trời đã sắp đặt rồi.
Giáng Tiên, nàng tiên nữ đã về trời, đúng hạn định theo lệnh của Ngọc Hoàng. Nhưng khi nàng đã ở trên trời thì lòng trần lại canh cánh, ngày đ êm da diết trong lòng nỗi nhớ cha mẹ, chồng con. Những ngày hội quần tiên, những lúc quây quần bên chị bên em cùng bạn bè, bỗng nhiên nàng lại nét mặt sa sầm, rồi lén gạt thầm dòng nước mắt ...
Những cử chỉ ấy, cuối cùng rồi cũng đến tai Ngọc Hoàng. Ngài cho gọi nàng lại để nghe nàng giãi bày tâm sự và thỉnh cầu ước nguyện. Khi thấu hiểu, Ngài cho nàng được phép trở lại cõi trần, nhưng đổi tên là Liễu Hạnh.
Khác với lần đi đ ày trước, lần này do tự nguyện, nên trong lòng nàng hoàn toàn thư thái, vui vẻ, chỉ mong sao cho chóng xuống trần. Khi về đến nhà vừa đúng lúc gia đình đang làm giỗ mãn tang cho nàng, mọi người đều hết sức ngạc nhiên và vô cùng sung sướng. Nàng ôm lấy mẹ mà khóc, rồi kể hết sự tình, dặn anh hãy gắng lo chăm sóc cha mẹ, vì lần này xuống trần nàng không thể ăn ở như lần trước, rồi trở về nhà chồng.
Đào Lang, từ ngày vợ mất, vẫn ngày đ êm thương nhớ không khuây. Liễu Hạnh đẩy cửa bước vào, gặp nhau vợ chồng con cái mừng mừng tủi tủi. Nàng cũng kể rõ mọi chuyện cho chồng biết, khuyên chồng hãy cố gắng luyện chí, yên tâm theo đuổi sự nghiệp công danh, đừng quên chăm sóc con thơ, phụng dưỡng cha mẹ. Nàng quét dọn, sửa sang nhà cửa, may vá quần áo cho chồng cho con, rồi bỗng chốc lại thoắt biến lên mây ... Cứ như thế, thỉnh thoảng nàng lại hiện về, làm xong các việc rồi lại biến đi. Dòng giã hàng chục năm sau, cho đến khi con cái khôn lớn và Đào Lang công thành danh toại, nàng mới từ biệt để đi chu du thiên hạ.
Từ đó, tung tích của nàng như mây nổi, nước trôi,không nhất định ở một nơi nào cả. Nàng biến hóa và có phép nhiệm mầu như thần như thánh, bởi vì nàng cũng chính là thần thánh.
Có khi nàng là cô gái đẹp vừa đi vừa thổi sáo dưới ánh trăng.
Có khi nàng là bà lão đầu tóc bạc phơ, ngồi tựa cây gậy trúc ở bên đường.
Có khi nàng là người bán hàng, mở quán trên lưng đ èo.
Lại có khi, như mọi người, nàng đi thăm viếng, vãn cảnh chùa chiền ...
Người nào giở thói trăng hoa, hoặc làm điều bạc ác, nàng thẳng tay trừng trị.
Tiếng lành đồn xa, tiếng "dữ" cũng đồn xa ... Ở khắp mọi nơi, mọi người thi nhau bàn tán về tung tích, hành vi của nàng. Câu chuyện càng ngày càng được thêu dệt thêm mãi, hư hư thực thực. Và ai ai cũng đều nghiêm trang, kính cẩn gọi nàng là Tiên Chúa.
Lần ấy, Tiên Chúa đang hóa phép thành cô gái, mở quán bán cho khách bộ hành ở chân đ èo Ngang (thuộc Quảng Bình). Lời đồn đại về một cô gái nhan sắc tuyệt vời bỗng đâu xuất hiện ở nơi đ èo heo hút gió, làm cho mọi người hết sức ngạc nhiên. Rồi chỗ nào cũng thấy thì thào bàn tán. Chẳng mấy chốc, lời đồn đại cũng tới tận Kinh đô !
Hoàng tử sắp kế nghiệp, vốn là một chàng trai lười biếng học hành nhưng lại ham chơi bời phóng túng. Có khi còn làm cả những việc khinh mất chẳng giữ gìn đến thể diện quốc gia.
Khi hay tin đồn có người con gái tuyệt vời, Hoàng tử ngày đ êm ao ước, đứng ngồi không yên. Nghĩ rằng mình là Hoàng thái tử, ở ngôi Đông cung, sắp tới sẽ được kế vị ngai vàng, thì chẳng lẽ lưu vật ấy còn dành cho ai nữa? Nếu không đến mau, e rằng nàng đã thành gia thất thì thật uổng phí ... Thế là, Hoàng tử giấu bặt vua cha, chọn một đoàn bộ hạ tin cẩn rồi lặng lẽ rời khỏi kinh thành, nhằm về hướng nam thẳng tiến. Ngày đi, đ êm đi, chỉ dừng lại những khi thật mệt nhọc, chẳng mấy chốc đoàn người ngựa đã gần tới chân đ èo Ngang.
Ở nơi mở quán, Tiên Chúa bấm độn đã biết có Hoàng tử đang đến tìm mình, lại cũng biết đó là một chàng trai vô vị, tầm thường, kiêu căng mà hiếu sắc.
Để răn đe trước, Tiên Chúa hóa phép biến thành cây đ ào mọc ở bên đường, ngay chỗ Hoàng tử đang dừng chân. Trên cây chỉ có một quả đang chín mọng.
Vừa chợt thấy quả đ ào, Hoàng tử tưởng là của trời cho, không đợi sai lính hầu, vội trèo ngay lên cây ngắt xuống. Quả đ ào ửng đỏ, thơm phức, vừa cầm trên tay, Hoàng tử đã vội đưa ngay lên miệng. Bỗng đâu, chỉ trong chớp mắt, quả đ ào nhỏ dần rồi biến mất, ngay trên tay Hoàng tử. Bọn lính hầu thấy vậy kinh hãi kêu lên, còn Hoàng tử cũng mặt cắt không còn giọt máu. Sau cơn bàng hoàng, cả bọn lại hò nhau lên đường, hoàn toàn không hiểu tý gì về ngầm ý răn đe mà Tiên Chúa đã báo trước.
Khi giáp mặt cô chủ quán, cả thầy lẫn tớ đều thảng thốt thẫn thờ. Thật danh bất hư truyền, chưa bao giờ Hoàng tử thấy một người con gái nào đẹp đến như thế. Và cũng chưa bao giờ chàng ta lại mê mẩn cuồng si đến như thế.
Hoàng tử hạ lệnh cho quân lính dừng chân, rồi gọi đồ ăn thức uống loạn xị. Cố tình trưng ra quần áo bảnh diện và những cọc tiền vàng óng. Lại cố tình ăn uống khề khà cho thật chậm thật lâu, cốt sao kể kéo đến tận chiều tối. Rồi khi mặt trời tắt hẳn, cả bọn mới giả bộ ngây ngô, nói rằng trời tối thế này thì đi làm sao được.
Một tên vò đầu bứt tai, xun xoe đến gần cô chủ quán:
- Xin cô vui lòng cho chúng tôi nghỉ lại trong quán một đ êm nay, tiền nong hết bao nhiêu chúng tôi cũng chẳng ngại ...
Tiên chúa, thừa rõ tâm tư của cả bọn này, bèn tươi cười đáp:
- Ấy chết, các ông là những người quý phái, nghỉ lại đấy sao tiện. Chỉ đi nửa dặm nữa là có xóm có làng, có dân phu phục dịch. Ở đây vừa mất tiền vừ chật chội. Vả lại quán chúng tôi là phận đ àn bà con gái, không nhận trọ khách đ àn ông bao giờ.
Nghe thấy thế, Hoàng tử đứng bật dậy, saÜng giọng:
- Đàn ông với chẳng đ àn bà. Đã là quán hàng, chẳng nơi nào có sự phân biệt như thế. Trời tối rồi, chẳng lẽ để chúng ta ngủ ở giữa đường hay sao? Quân bay, cứ vào dọn dẹp.
Tiên Chúa lặng thinh không nói gì. Tưởng chủ quán hoảng sợ, Hoàng tử liền đổi giọng, vừa nói vừa vỗ vỗ vào túi tiền lớn mà tên lính hầu vẫn đeo bên mình:
- Xin cô đừng lo. Chỉ một đ êm nay cô cũng kiếm được bằng mấy năm mở quán.
Tiên Chúa bỏ vào phòng trong, không muốn nghe nữa.
Ở phòng ngoài, bọn lính hầu thu dọn các thứ vào một góc rồi quây màn trướng cho Hoàng tử nghỉ. Còn bọn chúng thì nằm la liệt quanh quán.
Khi ấy, đang tiết tháng tám, trời thu mát mẻ, và ở giữa chân đ èo thoáng đãng, trăng gió lại như khách hữu tình. Hoàng tử sai bày tiệc rượu rồi năn nỉ mời chủ nhân ngồi đối ẩm. Tiên Chúa, phần vì không muốn để người của triều đình mất thể diện, phần thì cũng muốn thử xem bọn này còn định giở trò gì, nên cũng nhận lời. Dưới ánh đ èn, vừa uống rượu Hoàng tử vừa huyên thuyên, khoe khoang đủ mọi thứ chuyện. Nào là nay mai sẽ lên ngôi Thiên tử. Nào là gấm vóc bạc vàng sẽ chẳng thiếu thứ gì. Nào là ai mà được ở ngôi Hoàng hậu thì sẽ là người diễm phúc ...
Tiên Chúa im lặng lắng nghe, thỉnh thoảng lại gật đầu ra ý tán thưởng, mặc dù đã cười thầm trong bụng. Thấy vậy, Hoàng tử tưởng "nàng" đã xiêu lòng, liền hoa chân múa tay rất là đắc ý, rồi bất thình lình, ôm gọn cô chủ quán vào trong lòng. Tiên Chúa bừng bừng nổi giận, gạt phắt Hoàng tử ra, chạy thẳng vào trong buồng. Hoàng tử loạng choạng đứng dậy, và trong cơn si cuồng rồ dại, cũng chạy vào theo.
Chỉ trong chớp mắt, Tiên Chúa đã phi thân lên núi, bắt ngay một con khỉ cái mang về. Lại hóa phép cho nó thành một cô gái cực kỳ xinh đẹp, còn mình thì biến đi.
Ở trong buồng, lúc đầu Hoàng tử chẳng nhìn thấy gì, sau một hồi mắt đã quen với bóng tối, mới lờ mờ nhận thấy "cô gái" đang ở trong góc, bèn nhảy tới, ôm ghì lấy rồi đ è xuống. Đúng lúc ấy, "cô gái" lại biến thành con khỉ, do Tiên Chúa đã hóa phép. Hoàng tử kinh hãi rụng rời, kêu rú lên một tiếng thảm thiết, rồi ngã vật ra, bất tỉnh nhân sự.
Bọn lính hầu ở bên ngoài nghe tiếng rú, tưởng cậu chủ bị hại liền bật cả dậy, xông thẳng vào buồng. Có tên còn giật vội mấy mẩu nến đang cháy ở bàn tiệc, để soi cho rõ. Trước mặt chúng, cảnh tượng bày ra mới khiếp hãi làm sao. Con khỉ cái miệng rộng đến tận mang tai, nhe hai hàm răng trắng ởn, đang cười lên khành khạch. Rồi vụt một cái, khỉ lại biến thành con rắn hổ mang, bạnh cổ, thè lưỡi phun ra phì phì ... Rắn hổ ngạo nghễ trườn lên người Hoàng tử, rồi trườn lên vách, vươn lên xà nhà, đi mất ...
Trong bọn lính hầu, nhiều tên cũng ngất xỉu. Còn lại những tên cứng bóng vía nhất, sau cơn bàng hoàng, vội vực Hoàng tử dậy và lay gọi những tên kia. Chúng nháo nhào cả lên, hà hơi, đánh gió, xoa dầu ... hàng tiếng đồng hồ sau Hoàng tử mới tỉnh lại.
Ngay nửa đ êm hôm đó, bọn lính hộc tốc đưa Hoàng tử về trạm gần nhất, rồi từ đấy, ngày đi đ êm nghỉ, đưa chàng ngược trở lại Kinh đô . Về tới hoàng cung, Hoàng tử đã trở thành một kể ngẩn ngơ, điên điên dại dại ... Cả Hoàng triều bối rối, lo sợ. Tìm thầy tìm thuốc có đến cả tháng mà bệnh tình Hoàng tử vẫn không thuyên giảm. Kịp có viên Đại thần người gốc xứ Thanh Hóa đến báo: ở quê có tám vị Kim Cương bùa pháp cực giỏi có thể chữa được bách bệnh, cho người vào xin thì mới cứu được.
Một ngàn năm về trước Phật Bà Quan Âm một lần hiện ra ở biển Đông, hóa phép thành hai cái túi, một ở giữa biển, một ở trên núi Ó thuộc làng An Đông đều ở xứ Thanh. Sau thời gian rất lâu, hai túi nở thành hai đóa hoa, và từ mỗi đóa hoa, lại hiện ra bốn vị thần tướng đều có phép thuật biến hóa thật là huyền nhiệm. Theo lệnh Phật Bà, tám vị thần tướng tỏa đi tám hướng, thân chinh mang thuật pháp tiểu trừ bọn tà ma vẫn đang lẩn quất sách nhiễu trong vùng. Khi bọn tà ma bị diệt, Phật Bà lại triệu hồi họ về chỗ cũ. Người trong vùng vẫn quen gọi là Bát bộ Kim Cương.
Lập tức một bọn thị vệ được lệnh nhà vua trở vào Thanh Hóa để xin bùa phép. Nhờ có bùa phép, Hoàng tử dần dần khỏi bệnh. Sau khi bình phục, Hoàng tử cúi đầu nhận tội trước vua cha, và kể lại sự việc xảy ra ở chân đ èo Ngang, tuy nhiên cũng đã tìm cách nói sao để giảm nhẹ lỗi lầm của mình. Nhà vua, vốn sẵn cảm tình với bà phi sinh ra Hoàng tử thứ hai, nên chẳng ngại ngần truất ngôi Đông cung của Hoàng thái tử và lập con thứ lên thay. Tuy vậy, tay đứt ruột xót, lại căm giận một kẻ tiện dân mà dám động vào người Hoàng tộc, nên trong bụng nghĩ phải quyết ra tay diệt trừ.
Vì nghe câu chuyện có vẻ lạ lùng nên nhà vua chẳng dám khinh xuất, bèn cho tên tướng thân tín cùng một tốp lính đi điều tra nội vụ. Một tháng sau, viên tướng trở về tấu trình ngọn ngành mọi chuyện. Nhà vua, vốn là bậc cao kiến, nghĩ rằng chỉ có các Pháp sư và Phù thủy cao tay mới có thể diệt trừ được kẻ "yêu nữ" này.
Các Pháp sư và Phù thủy lừng danh trong nước lập tức được lệnh triệu hồi về kinh, dẫn sĩ tốt đi chinh phạt. Chẳng bao lâu sau, những kẻ sống sót đều phải quay về, nạp mình trước sân rồng hoạch tội, vì chẳng những không bắt được nữ chủ quán mà lại còn bị đánh cho tan tác, tơi bời. Bất đắc dĩ, nhà vua phải cầu cứu đến tám vị Kim Cương. Tám vị này, vốn là những bậc tu hành, chẳng mặn mà gì đến chuyện đánh dẹp của triều đình, lần trước có cho bùa phép thì chẳng qua chỉ là muốn cứu vớt một kẻ nạn nhân mà thôi.
Nhà vua phải cho đại thần mang lễ vật đi lại nhiều lần mới thỉnh cầu được họ.
Các vị Kim Cương, sau khi nhận lời, bèn phi thân tới đèo Ngang.
Sau khi bài binh bố trâïn xong, họ dụ Tiên Chúa vào giữa, rồi từ tám hướng tiến vào đánh.
Ở giữa vòng vây, Tiên Chúa chẳng hề nao núng, ứng phó cực kỳ linh hoạt. Các phép thuật của các vị Kim Cương đều bị mất hiệu lực. Cây đổ, đá lăn, thú dữ nhe nanh múa vuốt cũng không làm hại được Tiên Chúa. Thoắt biến rồi thoắt hiện, các phép thuật của các vị Kim Cương đều như nhằm vào chỗ không người, nhiều khi lại nhầm vào nhau, tự gây ra thiêït hại. Tiên Chúa thản nhiên như thường còn các vị Kim Cương càng lúc lại càng thấm mệt. Khi đã núng thế, một vị bay vút lên trời, đi cầu khẩn Đức Phật, xin một cái túi, nói là để bắt yêu tinh vừa mới xuất hiện. Đức Phật lúc ấy đang bận, nên đã vô tình ném túi cho.
Nhờ cái túi thần, cuối cùng các vị Kim Cương đã lừa bắt được Tiên Chúa. Họ đưa Tiên Chúa về kinh, trình trước sân rồng. Nhà vua sai thiết triều rồi xét hỏi:
- Nhà ngươi là ai?
- Muôn tâu ... Tiên chúa đáp. Tôi là con gái út của Ngọc Hoàng Thượng Đế, xuống trần làm người mở quán bán hàng.
- Mở quán bán hàng thì cớ sao lại làm hại đến Hoàng tử?
- Thưa ... ở đời có lửa thì ắt có khói, có nhân ắt có quả. Tôi chỉ trừng trị kẻ nào làm điều bất thiện mà thôi. Nếu đấy là Hoàng tử thì lại càng phải xử công minh để làm gương cho bàn dân thiên hạ, như vậy mới là đúng với phép nước.
Nhà vua thấy không còn gì hỏi được nữa, nhưng cũng chẳng thể để mất thể diện quốc gia, bèn để nét mặt ra vui tươi, rồi hỏi:
- Công nương nói chí phải. Ta đã có chiếu trách phạt Hoàng tử rồi. Nay chỉ muốn hỏi công nương cho rõ mọi chuyện mà thôi.
Sau khi nghe Tiên Chúa kể lại hành vi của Hoàng tử, Nhà vua đ ành phải ngậm bồ hòn làm ngọt, nói lời cảm tạ rồi chúc Tiên Chúa lên đường may mắn ...
Tiên Chúa không trở lại chân đ èo Ngang nữa, mà lại vân du theo hướng Bắc, đến miền xứ Lạng, là nơi có nhiều phong cảnh đẹp. Các động Tam Thanh, Nhị Thanh ... là nơi Tiên Chúa thường hay thăm viếng. Một lần đang trên đường, Tiên Chúa gặp đoàn sứ do Phùng Khắc Khoan dẫn đầu đi sứ sang Trung Hoa. Gặp người con gái đẹp, xưa nay chưa từng thấy bao giờ, ông chánh sứ cảm kích ứng khẩu đọc liền một bài thơ tứ tuyệt. Nào ngờ nghe xong,Tiên Chúa cũng ứng khẩu đọc luôn mấy câu thơ đối lại. Các vị trong đoàn sứ bộ thảy đều ngạc nhiên, và cảm phục vì tài đối đáp, vì lời thơ vừa trang nhã lại đầy ý tứ. Thế là họ bảo nhau dừng chân mấy ngày ở trạm nghỉ, rồi mời Tiên Chúa ở lại cùng nhau xướng họa đề thơ. Khi hỏi lai lịch, nơi ở, Tiên Chúa chẳng nói năng gì mà chỉ đọc lên một bài thơ đố. Phùng Khắc Khoan vốn là người nhanh trí, hiểu rằng người con gái này chẳng phải người thường, bèn đọc một bài thơ hẹn gặp lại, sau khi đoàn sứ trở về.
Nhớ lời hẹn, một năm sau Tiên Chúa có mặt ở vùng Hồ Tây ngay bên cạnh kinh thành. Khi ấy Phùng Khắc Khoan đã hoàn thành sứ mạng trở về, cùng hai người bạn là ông Ngô, ông Lý đang đi vãn cảnh. Họ gặp nhau mừng rỡ, chuyện trò, rồi lại đề thơ, xướng họa như xưa. Cả ba người, là những bậc tài danh đương thời, đềâu hết lòng thán phục tài thơ của Tiên Chúa vừa thanh cao, lại vừa huyền nhiệm, không lời nào có thể nói hết được.
Sau khi từ biệt ba nhà thơ, Tiên Chúa vân du vào làng Sóc, thuộc tỉnh Nghệ An ngày nay, cũng là một nơi có phong cảnh đẹp. Ở làng này hiện đang có một chàng thư sinh tuy cha mẹ mất sớm, nhà lại rất nghèo, nhưng vẫn ngày đ êm miệt mài kinh sử. Tiên Chúa biết chàng chính là hậu thân của Đào Lang ngày trước, bèn biến thành một phụ nữ, lúc đầu đến giúp đỡ, rồi sau đó kết duyên vợ chồng. Hai bên yêu nhau, chẳng cần phải có người mối lái. Nàng giúp cho chàng yên tâm chuyên cần vào việc đ èn sách, chẳng phải lo nghĩ gì đến chuyện sinh nhai, thế rồi khi nhà vua mở khoa thi, chàng đã đỗ đại khoa và được bổ vào Hàn Lâm viện. Nàng sinh cho chàng một đứa con trai, thật là đẹp đẽ kháu khỉnh. Nhưng tình duyên của họ cũng chẳng được lâu dài. Khi đứa con vừa tròn năm tuổi thì người mẹ đột ngột qua đời, vì chính lúc đó Tiên Chúa có lệnh gọi của Ngọc Hoàng, phải về trời gấp. Người chồng đau xót, cùng lúc nỗi đau càng như xé ruột xé gan. Chàng chẳng nghĩ đến chuyện tục huyền, cũng chẳng nghĩ đến chuyện cửa công. Thế là chàng xin từ quan, lui về quê nuôi đứa con côi, vui thú với cây cỏ sông nước, và giữ mãi trong lòng những kỷ niệm ngọt ngào của mối tình đầu.
Về phần mình, ở trên trời, Tiên Chúa cũng không sao quên được cõi trần. Lúc nào Tiên Chúa cũng thấy lẻ loi giữa cảnh phồn hoa đô hội. Trong tâm trí Tiên Chúa, lúc nào cũng như in mọi cảnh dưới trần, và cùng với nó, là cảm xúc càng lúc càng thêm bồi hồi da diết. Ôi! Cõi trần gian, nơi nhiều nỗi vất vả lo toan mà sao lại thân thương thiết tha đến thế! Dưới cõi trần, còn bao nhiêu điều chưa thấy, bao nhiêu nơi chưa biết, bao nhiêu việc chưa làm! Những miền danh lam thắng cảnh vẫy gọi, những bậc hiền tài cần tiếp kiến, rồi cả những nỗi khốn khó cô đơn, những điều bất công ngang trái ... Tất cả đều cần phải có bàn tay của Tiên Chúa đưa ra giúp rập, bù trì ...
Thế là Tiên Chúa khẩn thiết xin với vua cha cho trở lại cõi trần gian và được ở lại vĩnh viễn, vì cả hai lần trước đều nửa đường đứt gánh, mới dở dang đau xót làm sao!
Ngọc Hoàng Thượng Đế lắng nghe và hiểu rõ tất cả. Ngài nhìn đứa con gái út, một khúc ruột, một phần xương thịt của mình dứt ra mà nay đã đến lúc trưởng thành, để có thể thay mặt mình ở dưới cõi trần được. Mặc dù tình cha con là thiêng liêng, là vô cùng quyến luyến, nhưng Ngài đã vui vẻ chấp thuận cho nàng ra đi, vì nghĩ rằng đó là cách tốt nhất để những chủ trương ở trên trời của mình có thể thực thi ở cõi thế. Ngài cho gọi hai thị nữ tin cậy là Quỳnh Hoa và Quế Hoa bảo cùng đi với nàng, vừa để giúp đỡ, vừa để cho có bầu có bạn.
Lần này Tiên Chúa xuống thẳng miền phố Cát. Ở đây, cũng như những lần trước Tiên Chúa thường hiển linh giúp đỡ người lành, trừng trị kẻ ác. Khi là cô gái thổi sáo, khi là bà lão chống gậy, khi là một người hành hương đến cửa Phật ... hành tung của Tiên Chúa biến hóa thật khôn lường. Thế là trong dân chúng lại nảy sinh những lời đồn đại, rồi mọi người cùng nhau góp của góp công, dựng một ngôi đền để lấy chỗ phụng thờ Tiên Chúa.
Những ngày tuần ngày tiết, dân chúng các nơi nô nức tìm về, đông vui nhộn nhịp xung quanh ngôi đền. Mọi ngườøi ai cũng muốn một lần được chứng kiến sự hiển linh của Tiên Chúa.
Lời đồn đại và những sự việc ấy, lan ra mãi, cuối cùng đã tới Kinh đô , lọt đến tai vua Lê chúa Trịnh. Hai vị vua chúa cho rằng trước kia tiên vương thả "yêu nữ" ra là một sai lầm, bây giờ đã đến lúc cần phải thẳng tay trừng trị. Bởi vì trong cõi trị vì của họ không thể có luật lệ nào khác ngoài luật lệ của vua chúa và ai muốn làm gì cũng không được tự quyền. Thế là hai vị cho triệu hồi các thuật sĩ tài giỏi trong nước đến Kinh đô , giao cho dẫn một một đội quân Vũ lâm hùng mạnh, đến thẳng miền phố Cát để đánh dẹp.
Một trận giao chiến ác liệt đã diễn ra. Bên Tiên Chúa đền đ ài bị phá tan tành nhưng bên phía triều đình cũng bị thất điên bát đảo, xác lính chết ngổn ngang, cuối cùng đ ành phải rút quân.
Vua Lê chúa Trịnh vô cùng tức giận vì không bắt được "yêu nữ" đem về. Nghe lời các thuật sĩ, hai vị cho vời tiền quân Thánh là một thuật sĩ tài danh bậc nhất đương thời để làm chủ tướng.
Lại nói Tiền quân Thánh vốn là một thân tướng nhà trời, do mắc lỗi, đã bị dáng xuống làm con trai thứ ba của một vị Thượng sư, sư tổ của phái Nội đạo tràng, một phái tu nổi tiếâng lúc bấy giờ. Hai người anh là Tả quân và Hữu quân đều có pháp thuật cao cường, tu ở núi Côn Sơn, còn Tiền quân thì tu ngay tại làng, tức làng Từ Minh ở Thanh Hóa, và có nhiều pháp thuật cao cường hơn cả.
Vốn trước kia cha ông họ là những viên quan lại, đã từng ăn lộc triều đình, nên bây giờ, mặc dù không muốn, cả ba anh em vẫn phải cầm quân ra trận. Tiền quân đi trước, còn hai người anh đi ở hai bên.
Đến Tam Điệp, Tiền quân sai đóng quân lại, còn mình cải trang làm một dân thường, cỡi ngựa trắêng đến Sòng Sơn gặp Tiên Chúa vì lúc này Tiên Chúa đã rời Phố Cát về đây. Vốn đã quen biết từ trên Thiên đình, nên khi gặp, Tiền quân làm ra vẻ hết sức thân mật, tự nhiên:
- Đi ngang qua đây, nghe sắp có giao chiến chẳng biết phải trái thế nào. Ta chỉ sợ nàng sức gái không đủ đối phó nên hạ sơn xem liệu có thể giúp đỡ được việc gì chăng? Thuật pháp của nàng thế nào hãy để ta xem, nếu thiếu ta sẽ dạy thêm cho.
Tiên Chúa tin lời Tiền quân nói là thật, hoàn toàn không biết đến việc Tiền quân do mắc lỗi mà phải xuống trần ... cho nên đã giở tất cả các pháp thuật ra cho Tiền quân xem. Xem xong, Tiền quân làm ra vẻ hết sức vui mừng sửng sốt:
- Thật là tuyệt! Như thế này cũng đã thừa đủ rồi, ta chẳng cần phải dạy thêm cho nàng điều gì nữa!
Nói xong liền biến đi ngay. Thấy thế Tiên chúa cũng hơi chột dạ.
Tiền quân thánh trở về nơi hạ trại, cùng hai anh bàn nhau cách xuất quân, rồi ngay đ êm ấy tiến đánh.
Tiên Chúa lúc đấy cùng Quỳnh Hoa, Quế Hoa đang nằm nghỉ, nghe tiếng quân lính reo hò, biết ngay là có biến , bèn bật dậy nai nịt gọn gàng, hóa phép thành trùng trùng rào gai vây quanh Sòng Sơn, lại hóa phép thành muôn ngàn quân sĩ giáo mác cung tên saÜn sàng nghênh chiến. Khi trông thấy Tiền quân thánh ở phía đối diện, Tiên chúa vừa khinh bỉ vừa tức giận vô cùng. Chẳng ngờ đường đường một vị thần tướng trên trời lại đi đầu quân đánh nhau vì một lũ vua chúa tham lam ở dưới trần, chẳng những thế, lại còn giở trò hèn hạ lường gạt cả tiên nữ.
Những thuậât pháp của Tiên Chúa tung ra đều hết sức nhiệm màu, và Tiền quân Thánh, mặc dù đã biết trước, cũng phải đối phó thật là chật vật. Tuy vậy bên phía Tiền quân Thánh, do có hai người anh trợ lực, lại quân lính đông hơn, nên dần dần đã bao vây được Tiên Chúa. Biết là không thể chống cự lại được, Tiên Chúa bảo Quỳnh Hoa Quế Hoa tìm cách trốn đi, còn tự mình cũng hóa phép thành đứa trẻ, rồi lại hóa phép thành con rồng có vẩy vàng vẩy bạc lóng lánh, múa lượn trên không ...
Tiền quân Thánh lúc ấy ngồi trên voi chín ngà niệm thần chú tung lưới sắt ra chụp lấy. Thế là Tiên Chúa bị bắt, rồi bị biến nguyên hình trở lại. Tiền quan sai lính mang dây đồng tới trói ...
Giữa lúc ấy Phật tổ bỗng nhiên xuất hiện. Tuy ngồi ở nơi tu thiền nhưng ngài biết rõ mọi chuyện. Ngài có mặt là để giải cứu cho Tiên Chúa, Ngài xét thấy, phần lớn đều phù hợp với tâm nguyện của Ngài.
Khi vừa thấy Phật tổ, Tiền quân Thánh liền sững ngay lại, thay vì dây đồng đã sai quân lính mang đến cho Tiên Chúa một bộ quần áo cà sa và một chiếc mũ ni cô. Tiên Chúa nhận áo mũ rồi thoắt biến lên mây cùng với Phật tổ.
Ở Kinh đô lúc này vua Lê chúa Trịnh đang buổi thiết triều, thấy quân về báo tin thắng trận thì mừng rỡ vô cùng: Thế là từ nay có thể thở phào nhẹ nhõm!
Mấy tháng sau hai vị vua chúa lại nhận được tin ở miền phố Cát, Tiên Hương và Sòng Sơn đang xảy ra nạn dịch. Trâu bò gia súc chết ngổn ngang, người ốm lăn lóc. Chẳng có người chăm sóc nên đồng bãi tiêu điều, côn trùng thả sức phá hoại ...
Nạn dịch này, từ trước đến nay, từ vua chúa cho đến dân thường cho là Tiên Chúa gây ra, để trả thù cho lần thất bại. Sự thực thì hoàn toàn không phải thế . Đấy là cái nạn dịch luôn đi kèm sau mỗi cuộc chiến tranh. Bao giờ cũng vậy, khi sức người đã cạn kiệt, lại đói ăn khát uống và làm việc quá sức rồi nguồn nước và không khí hôi rình xác tử thi, thì lẽ dĩ nhiên, bệnh dịch sẽ phải phát sinh ra nhiều. Có trách là trách những kẻ gây ra chiến tranh phi nghĩa, chứ chẳng nên trách những người tự vệ.
Thế nhưng, do tin là để Tiên Chúa mất lòng đã gây ra bệnh dịch nên Nhà vua đã ra lệch cho quan sở tại xây lại đền thờ ở các miền phố Cát, Tiên Hương và Sòng Sơn. Dân chúng khi biết tin này cũng nhiệt liệt hưởng ứng, góp công góp của. Thế là, chẳng mấy chốc ở những nơi này đền đ ài mọc lên, bề thế nguy nga chẳng kém gì nơi cung vua phủ chúa, xứng đáng với công sức của Tiên Chúa và cũng xứng đáng với niềm tin yêu tin cậy của mọi người.
Tại các nơi ấy, hàng năm vào dịp hội hè và các ngày lễ tết, người dân các nơi lại náo nức tìm về, mang lễ vật hương hoa tưởng niệm Tiên Chúa và cũng là mong Tiên Chúa năng hiển linh, phù hộ đôï trì. Và bao giờ cũng vậy trong các ngày hội, sau phần lễ tế, đều có các trò vui chơi dân giã.
Các triều vua về sau, mỗi khi mang quân xuất chinh, hay làm việc gì hệ trọng cũng đều cử Đại Thần về đây tế lễ, cầu xin và hậu tạ sau khi công quả toại nguyện. Càng ngày các nơi ấy càng trở nên linh thiêng và thành niềm tin bền vững trong lòng mọi người. Sắc thượng phong của triều Lê, đặt hiệu của Tiên Chúa là "Mã Hoàng công chúa", rồi về sau, thấy cầu được ước thấy, bèn đặt thêm là "Mã Hoàng công chúa Chế thăng hòa diệu Đại vương".
Chẳng những ở ba nơi kể trên, mà các nơi khác: Đèo Ngang (Quảng Bình), Xứ Nghệ, Xứ Lạng và Tây Hồ (ven sát kinh thành) ..., những nơi trước kia đã từng lưu dấu Tiên Chúa, dân chúng cũng lập đền thờ tưởng niệm. Tùy khả năng và phong tục của mỗi nơi, chỗ thờ tự và lễ vật có thể khác nhau, nhưng thảy đều xuất phát từ lòng biết ơn và sự cầu mong chân thành.
Còn những nơi Tiên Chúa chưa từng đặt chân đến, mọi người cũng cầu mong có dịp nào đó Ngài sẽ giáng lâm, và do vậy, khắp các làng quê, ở đâu cũng lập điện thờ. Điện thờ được lập ở mé bên hoặc mé sau Phật điện là nơi thờ Phật.
Nhân dân kính cẩn gọi Tiên Chúa là Thánh Mẫu, nhưng nhiều khi giản dị và dân giã hơn, gọi Tiên Chúa là Mẫu Liễu.
Mẫu Liễu là niềm tin, là sự cầu mong của tất cả mọi người. Mẫu cũng chính là lương tâm, là sự toàn thiện mà tri giác của con người cần phải vươn tới.

Chủ Nhật, 20 tháng 2, 2011

Cửu Trùng Thanh Vân Thánh Mẫu

Cửu Thiên Huyền Nữ còn gọi là Thanh Vân Công Chúa, Lục Cung Công Chúa, Vương Mẫu Nương Nương, Cửu Thiên Huyền Nữ Nương Nương , hoặc nói gọn Oa Huỳnh, Huyền Nữ, là một vị nữ thần trong những truyền thuyết thần thoại của Trung Quốc từ xưa, về sau được Đạo Giáo tin tưởng trở thành một vị nổi danh trong hàng nữ tiên.
Sở dĩ nói “cửu thiên” là ý nói tám phương và trung ương , cho nên cửu thiên là khắp nơi ,bốn mặt tám hướng đều có. Nói cách khác, Huyền Nữ là nữ thần duy nhất trong trời đất. Tại Đài Loan, ở những vùng nông thôn tin vào những truyền thuyết thần minh, thì Cửu Thiên Huyền Nữ được gọi thân mật là “Mẹ”, gồm trên hết là Mẹ cả, Mẹ hai, Mẹ ba….đến Mẹ chín để chỉ chín vị thần tượng thờ phụng.
Còn có một thuyết cho rằng, Cửu Thiên Huyền Nữ tức là Nữ Oa Nương Nương , thuyết nầy còn phải xem xét lại.
1.- Sự hiển linh của Thần Nữ:
Trong Vân Cấp Thất Thiêm và Cửu Thiên Huyền Nữ truyện có chép:- Cửu Thiên Huyền Nữ là thầy của Huỳnh Đế, và là học trò của Tây Vương Mẫu . Khi Huỳnh Đế trừ giặc Xi Vưu , Huyền Nữ đã hạ phàm, đem binh phù ấn kiếm giao cho Huỳnh Đế, lại còn dạy Huỳnh Đế cách chế tạo “Trống Quì Ngưu 80 mặt” để đánh bại Xi Vưu.
*Trong “Truyện Thủy Hử”, sau khi Tống Giang được cứu ở Giang Châu, đi đón cha lên núi, chẳng dè bị quan binh phát hiện ở Thương Huỳnh, chạy trốn lại đến chỗ Miếu Thờ Cửu Thiên Huyền Nữ ở địa phương. Cửu Thiên Huyền Nữ đã hiển linh cứu thoát Tống Giang, lại còn cho y ba quyển thiên thư bảo y hãy “thế thiên hành đạo” (thay trời hành đạo) . Về sau nầy, Tống Giang qui thuận triều đình, lãnh binh đi chinh phạt nước Liêu, bị quân Liêu vây hãm trong trận “Thái Dĩ Hỗn Thiên Tượng” . Đem đến, Tống Giang nằm mộng thấy Huyền Nữ chỉ bày cách phá trận, nhờ đó thắng lớn quân Liêu.
*Theo sách vở hiện nay thì Cửu Thiên Huyền Nữ là một vị Nữ Tiên lộng lẫy, nhưng hình tượng gốc của Ngài lại là một quái vật đầu người mình chim, gọi là “Huyền Điểu” ngày xưa. Trong Kinh Thi, ghi rằng “huyền điểu” chính là tổ tiên của người Thương (nhà Thương trước nhà Châu) . Trong “Sử Ký”thì nói rằng , thưở xưa, có một bà mẹ thuộc hàng tổ tiên của họ Ân-Thương đã ăn một cái trứng cùa huyền điểu, có thai mà sanh ra con. Điều nầy nói lên sự sùng bái huyền điểu của tộc họ nhà Thương vậy.
*Chính hình tượng huyền điểu nầy về sau hóa thân thành Huyền Nữ, thâm nhập vào truyện thần thoại về Huỳnh Đế và trở thành sư phụ của Huỳnh Đế là vì thế. *
Truyện chép:
Sau đời vua Thần Nông, các bộ lạc đều tự tách ra hùng cứ mỗi nơi. Có một bộ lạc hùng mạnh mà vị thủ lãnh là Xuy Vưu muốn thôn tính các bộ lạc khác để lên làm bá chủ, nhưng Xuy Vưu lại quá độc ác, ai không thuận theo thì bị giết chết rất tàn nhẫn. Các bộ lạc liền liên kết nhau, tôn vị thủ lãnh Hữu Hùng Thị (nay ở huyện Tân Trịnh tỉnh Hà Nam) lên chỉ huy chống lại Xuy Vưu. Trận đánh dữ dội quyết định sự thắng bại với Xuy Vưu xảy ra ở Trác Lộc. Sương mù dày đặc, quân Hữu Hùng Thị bị Xuy Vưu vây chặt, không nhận định được phương hướng đánh ra giải vây, nên thường bị Xuy Vưu đánh bại phải tháo lui. Sự thảm bại của Hữu Hùng Thị thấy rõ trước mắt. Trong lúc nguy cấp như thế, Ðấng Cửu Thiên Huyền Nữ hiện ra dạy Hữu Hùng Thị chế ra xe hai bánh chỉ Nam, có bộ phận chỉ rõ hướng Nam, để phân định phương hướng và vị trí tiến quân, lại dạy cho binh pháp. Nhờ vậy, Hữu Hùng Thị củng cố binh mã, từ trong đánh ra bất ngờ, làm cho binh đội Xuy Vưu thảm bại, bắt sống được thủ lãnh Xuy Vưu đem giết chết. Thế là yên giặc, tất cả dân chúng các bộ lạc đều hoan nghinh Hữu Hùng Thị, tôn Hữu Hùng Thị lên ngôi Minh chủ, lấy hiệu là Hoàng Ðế hay Huỳnh Ðế. Nguyên Hữu Hùng Thị được sanh ra tại gò Hiên Viên, nên về sau gọi là Hiên Viên Huỳnh Ðế.
Sau đó, Ðấng Cửu Thiên Huyền Nữ cũng thường ứng hiện giúp vua Huỳnh Ðế và những người hiền tài trong nước, như giúp Hoàng Hậu Nguyên Phi chế ra nghề nuôi tằm lấy tơ dệt lụa, giúp ông Dung Thành chế ra máy Cai Thiên để xem Thiên tượng, giúp ông Thương Hiệt chế ra chữ viết tượng hình để thay cho việc thắt nút ghi nhớ các sự việc.
Ngoài ra Ðấng Cửu Thiên Huyền Nữ truyền khoa Lục Nhâm Ðộn Giáp, và phép bói 64 quẻ Dịch mà đoán kiết hung.
Thưở ấy thì Huyền Nữ chưa thoát khỏi hình tượng chim, nhưng đã tiến thêm một bước là trở thành người cứu nạn gấp, là một vị Nữ Thần nửa người nửa chim chứa đựng nhiều tài năng mưu lược vậy.
*Đến đời Tống, trong “Vân Cấp Thất Thiêm” thì Cửu Thiên Huyền Nữ đã hoàn toàn được “nhân thần hóa”, xóa bỏ tất cả dấu vết động vật trong hình tượng. Trong quyển sách đặc biệt tên “ Cửu Thiên Huyền Nữ truyện” đã diễn tả bà cỡi chim phượng, trên đám mây ngũ sắc, mặc áo chín sắc “Thái Thúy Hoa”. Ngài là vị chuyên môn phù trì cứu giúp anh hùng, dạy thiên thư binh pháp cho các nữ tiên trên trời và chính thức trở thành “ Cửu Thiên Huyền Nữ Nương Nương ”.
Nhân vật Cửu Thiên Huyền Nữ đã xuất hiện rất nhiều trong các tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc, tạo ra ảnh hưởng rất lớn về niềm tin của quần chúng. Những sách được biên soạn như là :- đời nhà Tống có Nguyên Gian viết “Đại Tống Tuyên Hòa Khiển Sự”; đời Minh có truyện “Tam Toại Bình Yêu” gồm bốn mươi bốn cuốn ; đời Thanh có “Nữ Tiên Ngoại Sử” và “Tiết Nhân Quí Chinh Đông” …đã tốn rất nhiều bút mực ca tụng sự anh linh của Cửu Thiên Huyền Nữ .
2.- Tứ Phước Tứ Tử :- (Ban phước-ban cho con trai)
Có một truyền thuyết liên quan đến Cửu Thiên Huyền Nữ như sau:-
“Thời viễn cổ, gia đình Cửu Thiên Huyền Nữ may mắn có được “Nửa miếng Vãy Lân” được trong họ tộc thờ phụng nghiêm chỉnh. Trong làng, ai không có con trai hoặc nghèo khổ đến lễ lạy cầu xin đều được như ý. Từ đó, người đời sau tin rằng , cứ thành tâm cầu khẩn với Ngài là cũng được toại nguyện. Còn chuyện Tây Vương Mẫu “đặc phái” Cửu Thiên Huyền Nữ đến giúp Huỳnh Đế thì có vẽ mơ hồ một chút.
Tuy nhiên, nhiều đời đã qua, mỗi thời đề cao thêm một chút thành ra ngày nay Ngài trở thành một vị Nữ Thần tối cao, có khả năng “Ban bố phước lộc, ban bố con trai” cho tất cả những ai thành kính tin tưởng Ngài.
*Ngày cúng tế Cửu Thiên Huyền Nữ là ngày mùng chín tháng chín. Khắp nơi đều có Miếu Thờ, tôn xưng là “Tổ Sư”, khói hương thờ phụng Ngài không dứt.

Văn dâng Mẫu Cửu Trùng

Vận bốn mùa âm dương tuyết thảo
Lòng chí thành cầu đảo bình an
Đăng trà quả thực dâng lên
Lòng tin bái thỉnh Chúa Tiên Cửu Trùng
Ngự cung trung cửu tiêu chính vị
Ở trên trời sửa trị bốn phương
Lòng Người trong sáng như gương
Thần thông biến hoá sửa sang cõi đời
Mặt hoa mày liễu tốt tươi
Hình dung yểu điệu miệng cười như hoa
Lưng ong tóc phượng dà dà
Áo xông hương xạ hài hoa chân giày
Cửu trùng ngự chín tầng mây
Quản cai các bộ tiên nay thượng đình
Có phen Mẫu ngự áo xanh
Ngự chơi đồng điệu đàn tranh quyển trầm
Dập dìu hầu hạ dư trăm
Kẻ nâng túi vóc,người cầm trùng xông
Áo xanh thay đổi áo hồng
Cõi Nam chính ngự ngai rồng đỉnh đang
Tay đeo trăm chuỗi hạt vàng
Miệng cười trăm thức vẻ vang hay là
Ngự thôi Chúa mới ban ra
Áo thắm quạt ngà ngự tới Tây cung
Bầu trời cảnh ấy đứng trông
Tràng sinh tiên dược tiến dâng tức thì
Lại sai bát bộ tiên phi
Tinh kỳ thẳng trỏ kéo đi dần dần
Đồn rằng cung Bắc thanh tân
Có bát thanh thủy tẩy trần bụi bay
Chúa liền ngự tới một khi
Màn mây chướng phủ khắp kì chân tay
Cô hầu sửa túi nâng khăn
Hương hoa phấn sáp đầy ngăn hộp cừ
Lược ngà Chúa lấy chải đầu
Áo vàng Chúa ngự quạt tàu cầm tay
Cờ vàng chỉ phất như bay
Xe loan giá ngự ngự rày tiên cung
Thấy người hạ giới có lòng
Nén hương thấu đến cửu trùng thiên thai
Đằng vân giá vũ một thôi
Thiên đình phút đã xuống chơi dương đình
Ba ngàn thế giới cảnh thanh
Đâu đâu là chẳng chí thành lòng tin
Tiểu tôi lòng thực thảo hiền
Lễ tuy bất túc kính thành hữu dư
Lạy Chầu xin giáng phúc cho
Từ rày đệ tử gồm no khang trù
Tứ thời bát tiết vô ngu
Chư tai hạn ách tống đưa hải ngoài
Chữ rằng :”Thiện giả thiện lai”
Đệ tử cầu tài tài đáo tại gia
Đền thờ Phật Thánh trên toà
Khuông phù đệ tử vinh hoa thọ trường

Đại Tiệc Tứ Phủ Trong Năm

-Tháng Giêng:
Ngày 6/1: Tiệc Cô Đôi Thượng Ngàn
Ngày 9/1: Tiệc Đức Vua Cha Ngọc Hoàng Thượng Đế và Cửu Thiên Huyền Nữ Công Chúa
Ngày 10/1: Tiệc Quan Hoàng Bát Nùng
Ngày 12/1: Tiệc Trần Triều Đệ Nhất Vương Cô Quyên Thanh Công Chúa
Ngày 15/1: Đại Lễ Thượng Nguyên
Ngày 17/1: Tiệc Cô Tân An
Ngày 20/1: Ngày Nhà Trần Ra Quân


- Tháng hai:
Ngày Mão đầu: Tiệc Đức Quốc Mẫu Đệ Nhị Thượng Ngàn Đông Cuông
Ngày 3/2: Tiệc Trần Triều Đức Ông Đệ Tam Đông Hải Đại Vương Cửa Đông Cửa Suốt Trần Quốc Tảng
Ngày 6/2: Tiệc Tứ Vị Vua Bà Đền Cờn Môn
Ngày 12/2: Tiệc Mẫu Tuyên Quang
Ngày 14/2: Tiệc Đản Nhật Quan Lớn Đệ Ngũ Tuần Tranh
Ngày 15-16/2: Tiệc Chúa Đệ Nhị Nguyệt Hồ
Ngày 24/2: Tiệc Sòng Sơn Quốc Mẫu
Ngày 28/2: Tiệc Quan Hoàng Lục An Biên Đại Tướng Quân


- Tháng ba:
Ngày 2/3: Tiệc Trần Triều Cô Bé Cửa Suốt Tĩnh Huệ Công Chúa Cặp Tiên Linh Từ
Ngày 3/3: Tiệc Đức Quốc Mẫu Đệ Nhất Thiên Tiên Phủ Dày
Ngày 7/3: Tiệc Cậu Bé Quận Đồi Ngang
Ngày 14/3: Tiệc Chầu Đệ Tứ Khâm Sai
Ngày 17/3: Tiệc Chầu Bát Nàn Đông Nhung Đại Tướng Quân


- Tháng tư:
Các ngày trong tháng: Đại Lễ Nhập Hạ
Ngày 12/4 : Tiệc Chúa Thác Bờ
Ngày 19/4: Tiệc Quan Hoàng Lục Thanh Hà
Ngày 24/4: Tiệc Trần Triều Vương Tử Đệ Nhất Hưng Vũ Đại Vương

- Tháng năm:
Ngày 5/5: Tiệc Trần Triều Đệ Nhị Vương Cô Đại Hoàng Công Chúa
Ngày 7/5: Tiệc Trần Triều Vwong Tử Đệ Tứ Hưng Trí Đại Vương
Ngày 10/5: Tiệc Đản Nhật Chầu Lục Cung Nương Chín Tư Hữu Lũng
                  Tiệc Chúa Bà Đệ Nhất Tây Thiên
Ngày 20/5: Tiệc Chầu Năm Suối Lân
Ngày 25/5: Tiệc Quan Lớn Tuần Tranh Ninh Giang Kì Cùng


- Tháng sáu:
Ngày 1/6: Tiệc Trần Triều Vương Phụ An Sinh
Ngày 10/6: Tiệc Đức Quốc Mẫu Đệ Tam Thoải Cung Thác Hàn
Ngày 12/6: Tiệc Mẫu Thác Đền Hàn và Đản Nhật Cô Bơ Bông
Ngày 16/6: Tiệc Chúa Bà Năm Phương Bản Cảnh Vũ Quận Bạch Hoa Công Chúa Cấm Giang
Ngày 24/6: Tiệc Đản Nhật Quan Lớn Đệ Tam Thuỷ Quốc Bơ Phủ Vương Quan Lảnh Giang Xích Đằng
Ngày 26/6: Tiệc Quan Hoàng Bơ Thoải


- Tháng bảy:
Các ngày trong tháng: Đại Lễ Tán Hạ - Đại Tiệc Tinh Tuyên Quang
Ngày 7/7: Tiệc Đản Nhật Ông Hoàng Bảy Bảo Hà
Ngày 12/7: Tiệc Mẫu Tuyên Quang
Ngày 13/7: Tiệc Quan Triệu Tường Tống Sơn Thanh Hoá
Ngày 17/7: Tiệc Ông Hoàng Bảy Bảo Hà
Ngày 20/7:Tiệc Bà Chúa Kho Bắc Ninh


- Tháng tám:
Ngày 3/8: Tiệc Trần Triều Vương Tử Đệ Nhị Hưng Hiến Đại Vương
Ngày 6/8: Tiệc Mẫu Đền Ghênh Nguyên Phi Ỷ Lan
Ngày 10/8: Tiệc Quan Hoàng Lục An Biên
Ngày 20/8: Tiệc Trần Triều Quốc Công Tiết Chế Nhân Vũ Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn Kiếp Bạc Linh Từ
Ngày 22/8: Tiệc Đức Vua Cha Bát Hải Động Đình Thoải Phủ Đồng Bằng Linh Từ


- Tháng chín:
Ngày 2/9: Tiệc Cô Bé Suối Ngang Phố Vị Lạng Sơn
Ngày 4/9: Tiệc Quốc Mẫu Âu Cơ
Ngày 9/9: Tiệc Cửu Trùng Thiên Cung Vương Mẫu
Ngày 13/9: Tiệc Cô Đôi Cam Đường
Ngày 19/9: Tiệc Cô Chín Đền Sòng
Ngày 20/9: Tiệc Công Đồng Bắc Lệ và Tiệc Chầu Lục Cung Nương
Ngày 28/9: Tiệc Trền Triều Quốc Mẫu Nguyên Từ Phu Nhân


-Tháng mười:
Ngày 10/10: Tiệc Đản Nhật Ông Hoàng Mười Nghệ An


-Tháng mười một:
Ngày 1/11: Tiệc Trần Triều Đức Ông Điện Suý Phù Ủng Đại Vương Phò Mã Phạm Ngũ Lão
Ngày 10/11: Tiệc Đản Nhật Quan Lớn Đệ Nhị Thượng Ngàn Thanh Tra Giám Sát


-Tháng mười hai:
Các ngày trong tháng (trước ngày 23 tháng chạp): Đại Lễ Tất Niên
Ngày 10/12: Tiệc Đản Nhật Đức Ông Trần Triều Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn
Ngày 25/12: Tiệc Chúa Đệ Tam Lâm Thao (Chúa Ót, Chúa Chữa)

Văn Khấn Công đồng Tam Tứ Phủ



Con niệm nam mô a di đà phật(3lần)
-Con lạy chín phương trời, con lạy mười phương đất, con lạy chư phật mười phương, mười phương chư phật, ngũ phương ngũ phật, thập phương thập phật, hằng hà sa số đức phật công đức vô lượng vô biên.
-Đức thế tôn bản sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
-Đức đông phương giáo chủ Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật.
-Đức tây phương cực lạc thế giới đại từ đại bi A Di Đà Phật.
-Đức đương lai hạ sinh Di Lặc Tôn Phật.
-Đức đại trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát.
-Đức đại hạnh Phổ Hiển Bồ Tát.
-Đức đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát.
-Đức đại lực Đại Thế Chí Bồ Tát.
-Đức đại nguyện Địa Tặng Vương Bồ Tát.
-Đức đại hiếu Mục Kiền Liên Bồ Tát
-Đức Chuẩn Đề Minh Vương Bồ Tát.
-Chư vị bồ tát, chư hiền thánh tăng vạn linh vạn phép hộ pháp chư thiên, thiện thần bồ tát, thập bát long thần, Già Lam Chân Tể.

-Con cung thỉnh mời đức Thiên phủ chí tôn vô sắc giới tứ không, tứ thiên Huyền Khung Kim Quyết Ngọc Hoàng Đại Đế Ngọc Điện Hạ.
 Củng thỉnh mời đức Tây Vương Mẫu Nương Nương Diêu Trì Kim Mẫu.
 Cung thỉnh mời đại thánh Nam Tào Lục Ti Duyên Thọ Tinh Quân.
 Cung thỉnh mời đại thánh Bắc Đẩu Cửu Hoàn Giải Ách Tinh Quân.
 Cung thỉnh Bắc Cực Thiên Trung, Tam Nguyên, Tam Phẩm, Tam Quan.
 Cung thỉnh Cửu Tinh Thiên Chúa, Thập Nhị Bát Tú.
 Cung thỉnh đức Khuông Quốc Đại Vương Tản Viên Sơn Thánh.
-Con cung thỉnh mời đức Địa phủ chí tôn Bắc Âm Phong Đô Nguyên Thiên Đại Đế Địa Cung Hạ.
 Cung thỉnh mời Địa phủ Thập Diện Minh Vương.
-Con cung thỉnh mời đức Thuỷ phủ chí tôn Phù Tang Cam Lâm Đại Đế Thủy Cung Hạ.
 Cung thỉnh mời Thuỷ phủ Bát Đại Long Vương.
-Con cung thỉnh mời Ngũ Nhạc Thần Vương Dương Phủ Thánh Đế Quân Ngọc Động Hạ.

-Con cung thình mời Lục Cung Thần Nữ Tứ Vị Thánh Mẫu:
 Cung thỉnh mời Mẫu đệ nhất Thiên Tiên Cửu Trùng Thanh Vân Lục Cung Bán Thiên Công Chúa Thiên Cung Hạ.
 Cung thỉnh mời Mẫu đệ nhị Địa Tiên Quỳnh Hoa Liễu Hạnh Mã Hoàng Công Chúa Sắc Phong Chế Thắng Hoà Diệu Đại Vương Địa Cung Hạ.
 Cung thỉnh mời Mẫu đệ tam Thoải Tiên Thuỷ Tinh Công Chúa Xích Lân Long Nữ Tinh Cung Hạ.
 Cung thỉnh mời Mẫu đệ tứ Nhạc Tiên Diệu Tín Diệu Nghĩa Thiền Sư Tuần Quán Đông Cuông Thượng Đẳng Cao Sơn Triều Mường Sơn Tinh Công Chúa Lê Mại Đại Vương Lâm Cung Hạ.
 Cung thỉnh mời nhị vị trưởng quản Sơn Lâm Bạch Anh Mị Nương La Bình Công Chúa:

-Con cung thỉnh mời hội đồng văn võ Trần Triều Hiển Thánh:
 Cung thỉnh mời đức ông Trần Triều Quốc Công Tiết Chế Hưng Đạo Đại Vương.
 Cung thỉnh mời Trần Triều Vương Phụ, Trần Triều Vương Mẫu, Trần Triều Vương Phu Nhân, Trần Triều Vương Huynh, Trần Triều Vương Đệ.
 Cung thỉnh mời tứ vị Vương Tử Đại Vương, thỉnh mời Trần Triều Phò Mã đức ông Phạm Ngũ Lão Diện Suý Tôn Thần.
 Cung thỉnh mời nhị vị Vương Cô Hoàn Thánh.
 Cung thỉnh mời Cô Bé Cửa Suốt, Cậu Bé Cửa Đông.
 Cung thỉnh mời tả quan Nam Tào, hữu quan Bắc Đẩu, văn võ bá quan quân thần trần triều, binh hùng tướng mạnh dẹp giặc Nguyên Mông.

-Con cung thỉnh mời hội đồng chúa Mán, Mường, Nùng, Dao, Sơn Trại, Chúa Sơn Lâm, Chúa Sơn Trang 18 cửa ngàn 12 cửa bể, Bát Bộ Sơn Trang, Tám Tướng Hùng Binh, Thập Nhị Tiên Nàng
 Cung thỉnh mời tam thập lục chúa bà: 12 bà chúa bói, 12 bà chúa chữa, 12 bà chúa tài lộc.

-Con cung thỉnh mời Ngũ Vị Vương Quan, Lục Phủ Tôn Quan.
-Con cung thỉnh mời Tứ Phủ Chầu Bà, 3 bà chầu Thiên, 3 bà chầu Nhạc, 3 bà chầu Thoải, 3 bà chầu Địa.
-Con cung thỉnh mời Tứ Phủ Thánh Hoàng, thập vị Hoàng Tử Thoải Cung.
-Con cung thỉnh mời Tứ Phủ Thánh Cô, các cô trên ngàn, các cô dưới thoải, các cô bồng đảo bồng lai,các cô trấn thủ cửa rừng, cung thỉnh mời cô bé bản đền tối linh.
-Con cung thỉnh mời Tứ Phủ Thánh Cậu, cung thỉnh mời cậu bé bản đền.
-Con cung thỉnh mời Ngũ Dinh Thiên Tướng, Ngũ Hổ Thần Quan, Thanh Xà Thần Tướng, Bạch Xà Thần Quan, tả Thiên Nhiên, hữu Lực Sĩ.
-Con cung thỉnh mời hội đồng các bóng các giá 18 cửa ngàn 12 cửa bể.
-Con cung thỉnh mời Chầu, Chúa thủ đền, Quan thủ điện, thân kì, thần linh, sơn thần, thổ địa bản xứ.

-Đệ tử con tên là:............. tuổi:..........
 Ngụ tại:.................................
 Kim niên kim nguyệt cát nhật lương thời.
 Hôm nay ngày:... Tháng:... Năm:...
 Đệ tử con nhất tâm 1 lòng, nhất tòng 1 đạo, nhất tâm trí thiết, nhất dạ chí thành, đêm tưởng ngày mong, tu thiết hương, hoa, đăng, trà, quả, thực mang miệng về tâu, mang đầu về bái, trên con tấu thượng thiên, dưới con đệ trình long cung thuỷ phủ cùng đồng gia quyến đăng bái yết cửa đình thần tam tứ phủ ...............(tên đền) linh từ.
 Mong trên cha độ, dưới mẫu thương, đèn trời đuốc biển soi đường dẫn lối, phù hộ độ trì cho quốc thái dân an, mưa thuận gió hoà cung như vuốt ve che trở cho gia chung chúng con trong 3 tháng hè, trong 9 tháng đông, đầu năm chí giữa, nửa năm chí cuối được bình an vô sự, vạn sự như ý, có bệnh thì tan, có nạn thì qua, tai quan nạn khỏi ...... Dãi tấm lòng thành cúi xin Phật Thánh Chúa Tiên anh linh chứng giám!!!

-Cung thỉnh công đồng Lục Cung Tiên Tổ dòng họ..... nguyên quán.....,Tổ Cô Mãnh Tướng,cậu bé cô bé tại gia, chư vị vong linh trong dòng họ đang hầu hạ phật thánh, làm đầy tôi kẻ tớ tại các bản đền bản phủ tấu đối phụng đình cho con cháu nhất tâm một lòng nhất tòng một đạo cầu được ước thấy, cầu sao được vậy...