Thứ Hai, 14 tháng 3, 2011

Truyền thuyết Xích Lân Long Nữ qua Liễu Nghị truyện

Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, cuối sử tích Kinh Dương Vương có ghi chú: "Xét sách Đường Kỷ, thời Kinh Dương có người đàn bà chăn dê, tự xưng là con gái út của vua xứ Động Đình, được gả cho con trai thứ của Kinh Xuyên, bị chồng bỏ rơi. Nàng viết thư tâu với vua Động Đình, nhờ Liễu Nghị chuyển thư. Xem vậy, Kinh Xuyên và Động Đình đời đời thông gia với nhau, kể đã từ lâu."
=========
Liễu Nghị là một thư sinh. Năm Phụng Nghi (niên hiệu Đường Cao Tông) đi thi không đỗ. Trên đường trở về bến sông Tương, ghé ngang nhà trọ ở Kinh Dương để thăm hỏi người bạn đồng hương. Đường đi quạnh vắng, cát bụi gió bay, Nghị mấy lần phải nương lùm cây mà nghỉ. Đi được chừng mươi dặm, thấy một thiếu nữ chăn dê bên đường, y xiêm tồi tàn nhưng nhan sắc tuyệt trần. Vẻ nàng rầu rĩ, mắt biếc đăm đăm như đang trông ngóng đợi chờ ai. Nghị động lòng trắc ẩn, nghiêng đầu chào, hỏi:
- Vẻ nàng đài các trâm anh, duyên đâu chịu khổ đến nỗi này?
Cô gái mỉm cười, nói lời đa tạ. Bỗng lại ôm mặt khóc nức, nghẹn ngào thưa:
- Quân tử có lòng hỏi đến, tiện thiếp kính cẩn thưa trình: Phận hèn gặp cảnh chẳng may, phải chịu nhiều điều nhục nhã, bầm gan tím ruột, căm hận thấu xương. Nguyên thiếp là con gái út của Long Quân ở Động Đình Hồ, nghe lời cha mẹ, kết duyên cùng con thứ của Long Xuyên. Chồng thiếp lêu lổng chơi bời, đắm say bọn tì nữ, nhẹ nghĩa vợ chồng, bạc tình ghét thiếp. Thiếp có đem chuyện thưa cùng bố mẹ chồng. Bố mẹ chồng thiếp nuông con, giận thiếp, đầy đọa đến nỗi này.
Nàng nói đến đây, tủi thân trào nước mắt. Nghị im lặng nghe. Nàng nói tiếp:
- Trời đất mênh mang, quê thiếp Động Đình, chẳng biết phương nào! Xa xôi cách trở, quặn đau gan ruột từng cơn, không biết cách nào nhắn tin về nhà! Nếu có tiện đường ngang qua, dám phiền quân tử trao hộ phong thư, chẳng hay có được chăng?
Nghị cảm động, khẳng khái đáp:
- Tôi là kẻ đọc sách thánh hiền, có chút nghĩa khí, nghe cảnh ngộ nàng, máu nóng bốc lên, giận mình không có đôi cánh mà bay ngay đến chỗ nàng muốn gửi thư, chỉ hiềm Động Đình Hồ nước sâu thăm thẳm, loài người là giống trên cạn, làm sao mang thư xuống được? Nàng có cách gì, xin chỉ dẫn.
Thiếu nữ vừa khóc vừa cảm tạ:
- Quân tử có lòng giúp đỡ, tiện thiếp cảm tạ vô cùng. Đường xuống Động Đình cũng như trên cạn mà thôi. Phía nam hồ có cây quất lớn. Quân tử chỉ cần gõ vào thân cây ba tiếng, sẽ có người hướng dẫn xuống hồ một cách dễ dàng.
Nói rồi, lấy trong tay áo ra một phong thư, lạy mà trao cho Nghị, mắt đăm đăm nhìn về phương đông, lệ thảm sa mãi không thôi. Nghị xót xa cất thư vào túi áo, ái ngại hỏi nàng:
- Chẳng hay nàng chăn dê làm chi, chẳng lẽ thần nhân cũng ăn thịt dê?
Nàng đáp:
- Chẳng phải dê đâu! Đây là những vũ công đấy!
- Vũ công là gì?
- Thưa, là thần sấm xét.
Nghị nhìn ngắm đàn dê, con nào cũng gườm gườm dữ tợn, mắt lộ hào quang, duy vóc dáng lông lá, không khác gì dê thường.
Chàng bảo nàng:
- Mai sau nàng trở về được Động Đình, xin đừng quên mà xa lánh kẻ làm sứ giả đưa thư này.
Nàng nói bâng khuâng, như nói một mình:
- Mãi mãi không quên, không lánh, lại là thân thích của nhau.
Nghị từ biệt, đi về hướng đông. Đi được mấy chục bước, ngoái nhìn lại, không thấy thiếu phụ và đàn dê đâu nữa.
Nghị ngừng lại Kinh Dương, ngủ với bạn một đêm. Hôm sau, lên đường, hơn một tháng về đến nhà. Sau đó, tìm đến Động Đình Hồ. Phía nam hồ quả có một cây quất cổ thụ. Gõ vào thân cây ba tiếng, thấy một người đàn ông lực lưỡng, rẽ sóng mà lên, vái Nghị mà hỏi:
- Dám mong được biết quý khách có điều gì sai khiến?
Nghị đáp:
- Bỉ nhân muốn được yết kiến đại vương.
Người ấy rẽ nươc dẫn đường, lại nói:
- Xin quý khách nhắm mắt một lát sẽ đến nơi muốn đến.
Nghị làm theo, một lát đã đến kinh thành tráng lệ với những lâu đài đẹp đẽ lạ lùng, nguy nga đài các, cổng cửa nhiều đếm không xiết, kỳ hoa dị thảo hương sắc thanh tao. Người đàn ông dẫn Nghị vào một lâu đài, mời ngồi:
- Xin quý khách đợi ở đây.
Nghị hỏi:
- Chẳng hay đây là đâu?
- Dạ, đây là điện Linh Hư.
Nghị ngồi, đưa mắt nhìn quanh. Trong điện, ngọc ngà châu báu không thiếu thứ nào. Cột điện bằng bạch ngọc trong vắt, nền bằng bìch ngọc biêng biếc xanh, rèm mành bằng trân châu quý, cửa chạm lưu ly, tường gắn xà cừ hổ phách. Đợi một hồi lâu, Nghị số ruột hỏi:
- Bao giờ bỉ nhân mới được yết kiên Động Đình Quân?
Người đàn ông dẫn đường đáp:
- Nhà vua đang cùng Thái Dương đạo sỹ bàn luận Hỏa Kinh ở gác Huyền Châu, chừng một lát sẽ xong.
Nghị hỏi:
- Dám mong được biết hỏa kinh là gì?
Người ấy đáp:
- Vua chúng tôi là Rồng. Rồng lấy nước làm thần. Với một giọt nước, Rồng có thể làm ngập sông hồ, đồi núi. Đạo sỹ là người. Người lấy lửa làm thánh. Một ngọn đèn nhỏ có thể đốt cháy cung A Phòng (cung điện vĩ đại của Tần Thuỷ Hoàng, sau bị Sở Bá Vương Hạng Vũ đốt ra tro). Nước lửa linh ứng diệu huyền, không giống nhau. Thái Dương đạo sỹ tinh tường đạo người, vua chúng tôi thỉnh ngài đến để nghe đạo.
Cửa điện bỗng mở, mây ngũ sắc rực rỡ bay vào, theo mây một người áo tía đai xanh, uy nghi đúng bậc đế vương. Người đàn ông bảo Nghị:
- Đức vua đã đến.
Nghị thi lễ. Long Quân hỏi:
- Quý khách ở cõi nhân gian phải không?
- Dạ phải.
Long Quân hỏi:
- Ngài không quản ngàn dặm xa xôi, xuống thuỷ phủ thâm u, hẳn có điều chi dạy bảo quả nhân?
Nghị đáp:
- Kẻ hàn sỹ này vốn cùng quê với đại vương, lớn lên ở đất Sở, du học ở đất Tần. Kém tài thi trượt, dạo chơi trên bờ Kinh Thuỷ, tình cờ thấy công chúa út của đại vương chăn dê ngoài đồng, dãi dầu mưa gió, cảnh rất thê lương. Chẳng đành lòng mà đứng nhìn, bèn hỏi nguyên do. Công chúa cho hay nàng bị chồng bạc tình ruồng rẫy, cha mẹ chồng khắc nghiệt, đầy đọa nên mới ra nông nỗi ấy. Công chúa khóc mà nhờ tôi mang thư đến đại vương.
Nói rồi, lấy thư ra, lạy mà dâng lên. Long Quân giữ lễ, vái mà nhận thư. Đọc xong, gạt nước mắt nói:
- Cha già có lỗi, xét người không kỹ, có tai như điếc, có mắt như mù, khiến cho con trẻ lâm vào cảnh khuê phòng bi đát ở phương xa. May nhờ ngài đây, tuy là người xa lạ, có lòng hiệp nghĩa, giữa đường thấy sự bất bằng chẳng tha, ra tay giúp đỡ. Ơn sâu nghĩa nặng, quả nhân xin ghi khắc trong lòng.
Long Quân rầu rầu, sa lệ thở than, trăm quan không ai cầm được nước mắt. Long Quân sai thái giám đem thư của công chúa út vào trong cung. Lát sau, trong cung ai nấy đều khóc, tiếng vang ai oán. Long Quân lại truyền một thái giám:
- Mau vào cung bảo mọi người đừng khóc thành tiếng, kẻo Tiền Đường biết chuyện, thì thêm rắc rối.
Nghị hỏi:
- Muôn tâu, Tiền Đường là ai?
Long Quân đáp:
- Em ruột quả nhân, trước kia làm thần sông Tiền Đường, nay đã nghỉ việc rồi.
Nghị lại hỏi:
- Dám mong được biết tại sao phải dấu ông ta chuyện này?
Long Quân đáp:
- Em trai quả nhân tính nóng như lửa, sức mạnh phi thường. Xưa đời vua Nghiêu bị lụt chín năm, cũng vì em trẫm nổi giận gây nên. Gần đây, giận nhau với một thiên tướng, đã san bằng 5 quả núi. Thượng Đế thương trẫm có công nên đã giảm tội cho em trẫm, giao cho trẫm quản thúc ở đây. Do đó, người ở Tiền Đường, hàng ngày đều đến đây chầu.
Long Quân nói chưa dứt lời, đột nhiên có tiếng thét long trời lở đất. Lâu đài cung điện rung chuyển, chao qua đảo lại như võng đưa, rồi gió cuốn mây tuôn ngập trời. Nghị nhìn thấy một con rồng khổng lồ, dài đến ngàn trượng, uốn mình trong mây. Mắt rồng sáng như chớp , lưỡi đỏ như máu tươi, vây vẩy rực như lửa hồng, cổ có vòng vàng cẩn ngọc. Quanh thân rồng, sấm sét vang rền, bão tuyết bủa xuống giá băng. Rồng quẫy mình bay thẳng lên chín từng mây. Nghị kinh hồn, ngã nhào xuống đất. Long Quân tay nâng, miệng nói:
- Xin đại nhân chớ sợ.
Nghị hồn bất phụ thể, bất tỉnh hồi lâu, tỉnh dậy, nói qua hơi thở:
- Nghị xin cáo biệt trở lại nhân gian. Nếu còn ở đây, khi rồng kia về, chắc hẳn thân hèn này chết mất.
Long Quân nói:
- Đại nhân chớ ngại. Em trai tôi lúc đi thì hung tợn, lúc về lại ôn nhu. Xin ngài lượng tình lưu lại để quả nhân được tỏ lòng ái mộ.
Rồi sai bầy yến tiệc linh đình khoản đãi quý khách. Rượu được vài tuần, nhã nhạc nổi lên, tinh kỳ rực rỡ, một người áo xiêm tơ lụa, trang sức trân châu, vóc dáng thanh tân kiều diễm, bước đến trước mặt Nghị cung kính nghiêng chào. Chàng nhận ra người đẹp chính là thiếu nữ chăn dê, bèn đứng lên trang nghiêm đáp lễ. Mặt ngọc nửa buồn, nửa vui, khóe thu ba như còn ngấn lệ, khép nép đứng bên ghế Long Quân. Long Quân nói với Nghị:
- May nhờ đại nhân cứu giúp, con gái quả nhân bị đầy đọa ở Kinh Dương, nay đã trở về.
Người con gái cúi chào thêm lần nữa rồi lui vào trong cung. Long Quân theo con cùng vào. Nghị nghe trong cung vọng ra tiếng oán than thương xót. Chừng có lẽ người thân đang cảm xúc về nỗi đoạn trường đã qua của công chúa út. Lát sau, Long Quân trở ra, cùng Nghị nói cười ăn uống.
Tiệc chưa tàn, một người đàn ông tuổi độ trung niên, phong cách thần tiên, mình mặc áo tía, tay cầm hốt ngọc bích, bước ra cung kính đứng sau lưng Long Quân. Long Quân bảo Nghị:
- Đây là Tiền Đường, em trai quả nhân.
Tiền Đường chắp tay cúi chào. Nghị đứng dậy thi lễ, rồi cùng ngồi mà nâng chén. Tiền Đường hướng về Nghị mà nói, giọng trong vang như tiếng chuông đồng:
- Cháu tôi bị nhục ở Kinh Lăng, phúc nhà chưa hết, gặp được đại nhân có lòng hiệp nghĩa, đoái thương cứu giúp, nay đã bình yên đoàn tụ với gia đình. Vui cảnh đầm ấm, cảm tạ đại ân, lời nói không đủ diễn hết cõi lòng, Tiền Đường xin được cúi mình mời đại nhân một chén rượu nhạt.
Nghị khiêm tốn đáp lời, đón rượu, thong dong uống cạn một hơi. Tiền Đường ngắm nhìn, nói với Long Quân:
- Phong thái nho nhã, cao đẹp đáng kính.
Long Quân hỏi em:
- Sáng nay chú đi, công việc ra sao?
Tiền Đường đáp:
- Em rời Điện Linh Hư vào giờ thìn, giờ tỵ đến Kinh Dương. Giờ ngọ giao tranh ở đấy. Xong xuôi, em lên Thiên Cung, tấu trình tự sự cùng Thượng Đế. Thượng Đế thấu nỗi oan, khiển trách qua loa rồi tha hết tội.
Lại hướng về Nghị mà nói:
- Tính tôi nóng nẩy, sáng nay hấp tấp lên đường, không kịp nói chào, lại làm kinh động cung điện, khiến đại nhân phật lòng, Tiền Đường tôi rất lấy làm hổ thẹn.
Nghị thẳng thắn đáp:
- Ngài gặp việc gấp, xin chớ quan tâm tiểu tiết.
Long Quân hỏi em:
- Trận này, em giết hại bao nhiêu?
Tiền Đường đáp:
- Dạ, sáu mươi vạn
- Có làm hại mùa màng không?
- Dạ có! Khoảng tám trăm dặm.
- Kẻ bạc tình đâu?
- Em đã ăn tươi rồi.
Long Quân trầm buồn:
- Kẻ bạc tình vong nghĩa, không tha thứ là đúng, nhưng em hấp tấp nóng nẩy cũng là không phải. Từ nay trở đi phải hành xử thận trọng hơn.
Tiền Đường cung kính vâng lời. Tiệc rượu tàn.
Đêm ấy Nghị ngủ ở điện Ngưng Quang. Hôm sau, Long Quân mời tất cả thân bằng quyến thuộc, mở đại yến ở cung Ngưng Bích mà đãi Nghị. Rượu quý thì trân, thức thức đều thơm và tinh khiết. Lại cò dàn nhạc lớn với những nhạc cụ lạ lùng. Vào tiệc, kèn nổi, tù và rúc, chiêng trống uy nghi, tinh kỳ phất phới. Lại có hơn vạn võ sỹ vung thương kích, múa gươm đao. Tất cả đều lạ đối với Nghị. Một võ sỹ từ trong tiến ra, nói lớn:
- Đây là điệu nhạc Tiền Đường phá trận.
Cờ vung gió rít, lạnh đến rợn người. Quan khách ngồi xem, tưởng chừng dựng tóc, sởn da. Điệu nhạc Tiền Đường phát trận vừa dứt, lại có tiếng trúc tơ vàng đá, lụa là châu ngọc thướt tha, hơn ngàn mỹ nhân uyển chuyển bước ra. Một nàng tuyệt đẹp giới thiệu cùng quý khách:
- Đây là điệu nhạc Chủ Quý Về Cung.
Tiếng nhạc du dương, như kể lể, như oán than cho bước đọa đầy của công chúa út. Khách ngồi nghe, người cúi mặt, kẻ gục đầu, không ai là không rơi lệ.
Hai điệu múa dứt, Long Quân truyền đem rượu ngon thưởng cho võ sỹ, lụa là thưởng cho mỹ nhân.
Quan khách ngồi sát lại nhau mà ăn uống, chuyện trò rất là thân mật. Rượu ngấm hừng hừng, Long Quân gõ bàn ca lên một khúc, bày tỏ chí khí đế vương, lòng nhân ái, nghĩa quân thần, tình cốt nhục. Tiền Đường cũng ca một bài hàm ý anh hùng, coi nhẹ sống chết. Lại ngợi khen tình vợ chồng hòa hợp thuỷ chung, chê trách kẻ bạc tình vong nghĩa. Liễu Nghị gõ chén, sảng khoái ca lên một khúc, bày tỏ phong thái kẻ sỹ nho gia, đang độ trẻ trung, giữa vùng trời đất mênh mông, thênh thang thả bước.
Ba người ca dứt, mọi người tán thưởng, hô lớn "muôn năm". Động Đình Quân tự tay bưng ra một hộp bằng bạch ngọc, trong đựng sừng tê rẽ nước mà tặng Nghị. Tiền Đường quân bưng một cái mâm bằng hồng ngọc, giữa mâm đặt viên ngọc soi đêm mà tặng Nghị. Nghị cảm ơn, nhận hai vật quý. Sau đó, những người trong cung đem lụa là châu báu mà chất quanh chàng, một thoáng thành nhiều đống ngổn ngang rực rỡ. Nghị vui vẻ nói cười, thi lễ đón nhận tặng phẩm liên tiếp.
Tan tiệc, Nghị chào chung mọi người, về nghỉ ở điện Ngưng Quang.
Hôm sau, Long Quân thiết yến đãi Nghị ở lầu Thanh Quang. Tiền Đường rượu đã ngà ngà, hầm hầm bảo Nghị:
- Hẳn ngài cũng đã từng nghe "đá cứng có thể đập tan chứ không thể uốn cong, nghĩa sỹ có thể giết chứ không thể làm nhục." Tôi có tâm sự, muốn ngỏ cùng ngài. Ngài thuận thì chúng ta thành đôi bạn tri âm, ngài không thuận thì tấm thân nghĩa sỹ của ngài sẽ nát như bùn, như đất. Ngài nghĩ thế nào?
Nghị thản nhiên:
- Xin được nghe điều tâm sự ấy.
Tiền Đường nói:
- Con gái yêu của Động Đình Quân là vợ Kinh Dương, nhan sắc như tiên nga, tư chất thông minh, nết na hiền thục. Cả họ nhà tôi ai cũng quý yêu. Kinh Dương là đứa vô lại, làm nhục cháu gái tôi, tôi đã giết nó mà ăn thịt. Họ nhà tôi mong tìm bậc nghĩa sỹ hào hiệp cho cháu gửi thân, hai họ kết tình thông gia, sao cho kẻ mang ơn biết chỗ trả ơn, kẻ thương người có nơi thương xót. Đấy cũng là đạo thuỷ chung của người quân tử, ngài nghĩ có đúng không?
Nghị cười nhẹ, nghiêm chỉnh nói:
- Tôi thật không ngờ Tiền Đường Quân hèn hạ đến thế! Nghe nói trước đây, để trút căm giận, ngài đã dâng nước làm lụt chín châu, san bằng năm núi. Lại đã tận mắt thấy ngài quẫy mình phá ngục đi cứu cháu ruột. Nghị này tưởng lầm ngài là bậc sáng suốt cương cường, đáng gọi là trượng phu, vì phạm hình luật, không né tránh cái chết, vì việc nghĩa không tiếc mạng sống. Ngờ đâu, nhân khi rượu nhạc chung vui, chủ khách hòa thuận, ngài lại đổi mặt thay lòng, đe dọa ân nhân. Tôi thật không dè ngài là hạng xoàng như vậy. Nếu tôi gặp ngài ở nơi sóng gió ba đào hay gặp ngài ở chốn rừng sâu núi thẳm, ngài dương vây móng, hút nước phun mưa, làm cho Nghị phải chết thì cũng coi như bị chết vì loài vật, chẳng có gì đáng nói. Đằng này, ngài đang mũ áo cân đai, bàn chuyện lễ nghĩa luân thường, lời lẽ thông suốt, cử chỉ trang nghiêm, kẻ tuấn kiệt ít ai bì kịp chớ đừng nói chi đến loài vật, dù là loài linh vật ở chốn sông hồ cũng chỉ là loài vật thôi. Bỗng dưng, rượu vào lời ra, trở thành ngu xuẩn, mê muội tối tăm, khùng điên đe dọa người khác, hèn hạ quá đỗi. Nghị này, sức tuy trói gà không chặt, nhưng quyết đem ý chí bất khuất để chiến thắng ngài, ngài hãy tự liệu.
Tiền Đường nghe Nghị mắng, hối hận mà đáp:
- Vừa rồi, ta vì quá chén, nói năng thô lỗ, cử chỉ ngông cuồng xúc phạm đến bậc cao minh, thật là hổ thẹn, xin ngài rộng lòng tha thứ.
Hai người hòa nhã với nhau, yến tiệc đàn ca càng thêm vui vẻ. Từ đấy, Nghị và Tiền Đường thành đôi bạn tri âm.
Hôm sau, Nghị từ biệt ra về. Hoàng hậu xứ Động Đình mở tiệc tiễn chân ở điện Tiềm Cảnh. Toàn thể gia tộc Long Quân đều đến dự.
Trong tiệc, hoàng hậu sa nước mắt mà bảo Nghị:
- Tiện nữ mang ơn quân tử, hận rằng chưa được báo đền đã phải chia ly.
Rồi dắt công chúa út đến vái Nghị để tỏ lòng biết ơn. Nhân đấy, lại hỏi:
- Hôm nay chia tay, biết rằng sau này còn được gặp lại hay không?
Nghị rầu rầu không đáp, lòng dạ băn khoăn rối như tơ vò. Ngày hôm qua, vì tự trọng mà bác đi lời đề nghị hôn nhân của Tiền Đường quân. Bây giờ hối tiếc không nguôi.
Tiệc hầu tàn, ai nấy đều có sắc buồn. Mọi người trong tiệc đem vàng ngọc trân châu cực phẩm mà tặng Nghị. Rồi Nghị theo đường cũ lên cạn. Có mười dõng phu gánh quà tặng đến tận nhà mới cáo biệt. Sau Nghị chỉ bán một phần trăm số quà tặng ấy ở chợ Quảng Lăng đã thành người giầu nhất vùng. Hoài Hữu. Cuộc sống giầu sang, hôn nhân trắc trở. Lần đầu cưới vợ họ Trương, chưa có con, nàng tạ thế. Lần thứ nhì lấy vợ họ Hàn, được vài tháng nàng cũng qua đời. Nghị rời nhà đến Kim Lăng, cám cảnh cửa nhà trống vắng, trẻ tuổi hóa vợ. Chàng cũng có ý tìm vợ mới cho bớt lạnh lùng gối chăn. Có một bà mai, nổi tiếng mát tay, chưa từng mai mối đám nào không thành, đến bảo với Nghị:
- Họ Lư ở đất Phạm Dương có cô con gái công dung ngôn hạnh ít ai sánh cùng, đang độ trẻ trung, góa chồng không con. Quả mai ba bẩy đang vừa, còn treo giá ngọc, mong gặp người quân tử, sửa túi nâng khăn. Gia thế nhà nàng cũng vào bậc khá. Cha là quan nhân Lư Hạo, có phẩm tước ở đất Thanh Lưu. Khi đứng tuổi, ưa học đạo thần tiên, từ quan, một mình ngao du ở chốn suối mây, không trở lại. Bà mẹ họ Trịnh, đoan chính trang nghiêm, dạy con nền nếp, chẳng hay ý ông thế nào?
Nghị nghĩ mình đã hai lần vợ chết, nên không kén cá chọn canh, chỉ mong có người hiền thục hòa hợp sắt cầm là mãn nguyện. Bèn nhờ bà mai chọn ngày đưa lễ, phối ngẫu nên duyên. Hai họ trai gái đều là bậc phú quý quan sang, nghi thức cưới xin, lễ vật quý giá, long trọng linh đình. Các bậc tài tử giai nhân ở đất Kim Lăng đều ngưỡng mộ đám cưới ấy.
Vợ chồng ăn ở với nhau rất ư hòa thuận. Nàng thì đằm thắm nết na, chàng thì nho phong khí phách, thật là châu trần còn có châu trần nào hơn. Một tối, nhà nho đăm ngắm vợ, lạ lùng càng ngắm càng thấy giống công chúa út của Động Đình Quân. Khuôn trăng nét liễu lại có phần phúc hậu diễm kiều hơn. Thấy chồng nhìn mình chăm chú, Lư Thị có ý thẹn, mỉm cười cúi đầu. Nghị hiểu ý, bèn đem chuyện cô gái chăn dê ra kể cho vợ nghe. Nghe xong câu chuyện, nàng hỏi bâng khuâng:
- Trong cõi người ta cũng có chuyện lạ vậy sao chàng?
Nghị mỉm cười, gật đầu. Hơn một năm sau, nàng sinh hạ được một bé trai kháu khỉnh, sáng láng giống in như Nghị. Khi bé trai đầy tháng, hai vợ chồng mở tiệc thân bằng quyến thuộc. Tiệc tàn, Lư thị bảo chồng:
- Chàng không nhận ra em ngày xưa ư?
Nghị trầm ngâm đáp:
- Xưa đưa thư cho Động Đình Quân, nay vẫn nhớ như chuyện mới hôm qua.
Nàng nhỏ nhẹ:
- Em là con gái út của vua Động Đình, bị Kinh Dương đầy đọa, nhờ chàng đưa thư. Mang ơn sâu nặng, em đã tự nguyện với lòng phải báo đền. Rồi chú Tiền Đường của em vụng về mai mối không thành, hai ta ly biệt mỗi người một phương, tuyệt không âm tín. Song thân em muốn gả em cho con trai ông Trạc Cẩm. Phận em là gái, lời nguyện với lòng không thể đổi mà ý cha mẹ cũng không thể trái. Nông nỗi éo le, em định đến gặp chàng, thẳng thắn dãi bầy để tuỳ ý quân tử định liệu cho. Cảnh chàng khi ấy, lấy vợ đã hai lần. Trước là chị họ Trương, sau chị họ Hàn. Hai chị nối nhau qua đời. Chàng dọn đến ở chốn này. Nhân duyên trời định, song thân mừng cho em có cơ hội báo đáp ơn chàng. Ngày nay, được vì chàng nâng khăn sửa túi, lại có con trai, em thật là mãn nguyện, dẫu có phải chết cũng không còn ân hận gì nữa.
Nghị im lặng, vòng tay ôm vai vợ, nàng tựa má vai chồng, nước mắt long lanh, ngước nhìn nói tiếp:
-  Khi mới gặp lại, em không thú nhận thân thế vì biết chàng không háo sắc. Nay lại nói ra vì biết lòng chàng đã cảm yêu em. Đàn bà con gái, thân phận mỏng manh. Bây giờ có con, em hỏi thật nhé: Việc em thác bày thân thế, giả làm con gái họ Lư, lòng chàng có trách em không? Hôm nhận đưa thư, chàng có nói câu "sau này về đến Động Đình, xin đừng quên mà xa lánh kẻ làm sứ giả đưa thư này". Chẳng hay ngày ấy, khi nói như vậy, chàng có nghĩ đến chuyện ngày nay hai ta nên vợ nên chồng hay chưa? Còn như việc chú em mai mối vụng về, chàng không thuận theo vì chàng không ưng em hay chỉ là giận chú? Chàng hãy nói đi, em mong được biết.
Nghị ôn tồn thẳng thắn đáp:
- Có lẽ mỗi người ở đời đều được tạo hóa an bài số phận. Buổi đầu gặp nàng ở chốn Kinh Dương, đọa đầy tiều tuỵ, lòng ta thực chỉ bất bình, ta mong muốn giúp nàng thoát cảnh điêu linh, ngoài ra không có ý gì khác cả. Còn như câu nói "xin đừng quên nhau" chỉ là tình cờ, không có hậu ý. Kịp khi Tiền Đường Quân đe dọa, ép uổng, làm ta bốc giận, dùng lý mà bác ý ông ta. Nàng thử nghĩ xem đã vì nghĩa khí giúp người, lý nào lại có hành vi giết chồng lấy vợ? Đó là điều kẻ sỹ đọc sách không thể làm. Sỹ khí cũng không cho phép ta khuất phục trước đe dọa của quyền uy, dù cho có thể bị gánh chịu tai họa. Nhưng nàng biết không, trong tiệc chia ly, ta thật cảm nàng quá đỗi. Lòng ta hối tiếc vô cùng. Tiếc rằng sao lại bốc giận mà bác đi đề nghị kết duyên với nàng của Tiền Đường quân. Ôi! Chuyện cũ đã qua. Bây giờ hai ta đã được toại nguyện, nên vợ nên chồng, chung sống bên nhau, âu yếm mãi mãi, không phải băn khoăn gì nữa.
Nghe lời chân thành tha thiết của chồng nàng, nàng xúc động thổn thức giờ lâu, rồi bảo chồng:
- Em tuy khác loài, nhưng không vô tình. Em có cách đền ơn tri ngộ, nghĩa phu thê. Loài rồng thọ đến vạn năm. Chàng sẽ cùng em hưởng thọ tuổi rồng. Từ nay, trên cạn dưới nước, hai ta thoải mái thong dong.
Nghị âu yếm nói:
- Ta có ngờ đâu một trang quốc sắc như nàng lại là một bậc thần tiên.
Hôm sau, hai vợ chồng bồng con về thăm thuỷ phủ Động Đình. Long Quân cùng hoàng hậu đón con rể, con gái và cháu ngoại bằng những tiệc vui linh đình, chưa từng có ở nhân gian. Ít lâu sau, Nghị đem vợ con về sống ở Nam Hải gần bốn mươi năm. Cuộc sống phú quý, dẫu đế vương cũng chẳng hơn được. Những người thân thích trong tông tộc của Nghị đều được giúp đỡ, sống đời phong phú như bậc vương hầu. Người dân khắp vùng Nam Hải, ai ai cũng lấy làm lạ lùng kính nể.
Đến năm Khai Nguyên nhà Đường, thiên đình quan tâm đến việc thần tiên sinh hoạt ngoài vòng cương tỏa, lùng bắt gắt gao. Vợ chồng Nghị sống không được thong dong thoải mái, bèn đem nhau về Động Đình sống hơn mười năm, không để lại một dấu vết nào ở cõi nhân gian. Niên hiệu Khai Nguyên năm cuối, (tức cuối thời Đường Huyền Tông), Liễu Hỗ là em họ Nghị, làm quan Kinh Kỳ Lệnh, bị biếm. Trên đường đến phương đông nam lãnh chức vụ mới, qua Động Đình Hồ. Đang giữa ban ngày, thấy ở xa xa một ngọn núi xanh nổi bồng bềnh trên sóng nước. Những người trong thuyền lấy làm sợ, nói:
- Chỗ này chưa từng có núi, em là thuỷ quái.
Phút chốc, núi đã đến gần bên thuyền của Hỗ. Một chiếc thuyền hoa từ núi chèo ra, trên thuyền có người lên tiếng gọi:
- Mời Liễu Công sang thưa chuyện.
Hỗ nghe gọi, tâm thần sảng khoái, ra lệnh chèo thuyền đến sát chân núi, thoăn thoắt bước lên. Trèo núi một chặp, khỏe khoắn tỉnh táo, nhìn thấy lâu đài cung điện nguy nga như hoàng cung ở chốn nhân gian. Hỗ thản nhiên bước vào như vào nơi quen thuộc của người thân thích.
Trong cung trang trí thanh lịch uy nghi, có đàn, có sáo, thức thức đều bằng châu ngọc hiếm có trên đời. Nghị từ trong bước ra, vẫn trẻ trung như thời trai tráng, thân mật cầm tay Hỗ, đăm đăm nhìn mái tóc người em đồng tông, ân cần bảo:
- Thấm thoắt từ độ chia tay, tóc em giờ đã bạc phơ.
Hỗ cười hồn nhiên đáp:
- Trời sinh mỗi người có một số mệnh. Anh là thần tiên, em là một nắm xương khô.
Nghị đưa cho em năm mươi hoàn thuốc, dặn dò:
- Uống mỗi viên này, thêm một tuổi thọ. Em cầm về, chia uống đến viên cuối, rồi trở lại đây gặp anh. Chẳng nên vướng lụy mãi trong cõi bụi trần.
Lại bày tiệc rượu thiết đãi Hỗ. Tiệc tàn, anh em chia tay. Từ đấy không còn ai thấy được Nghị nữa.
Hỗ trở về cõi người ta, đem chuyện kể với người đời. Gần bốn mươi năm sau, Hỗ bỏ đi đâu mất, không ai biết tăm tích.
Lý Triều Uy, khi viết lại xong chuyện trên, có ghi chú: Chuyện này đã chứng nghiệm cho tôi rằng có linh vật đứng đầu ngũ trùng. Loài người là khỏa trùng, giữ tín với lân trùng. Vua Động Đình hào phóng, lời nói ôn nhu ngay thẳng.
Vua Tiền Đường lỗi lạc khác thường. Hỗ ngợi khen nhưng không ghi chép lại. Tôi thấy câu chuyện có ý nghĩa nên ghi lại.

Chủ Nhật, 6 tháng 3, 2011

Mẫu Thượng Ngàn


Trong việc thờ cúng tại các làng quê ở miền Bắc và miền Trung nước ta, có một hiện tượng phổ biến là bên cạnh đình, chùa, bao giờ cũng có một nơi thờ Thánh Mẫu, gọi là Điện Mẫu.

Điện Mẫu thường nằm ở mé cạnh chùa, nhà gạch xây thẳng ba gian, nhỏ hơn chùa. Đôi khi cũng xây chùa theo kiểu chữ đinh.

Tại gian chính giữa, là nơi đặt tượng Mẫu.

Trường hợp đặt một tượng Mẫu thì đó là Thánh Mẫu, được hiểu là Mẫu của tất cả.

Trường hợp đặt ba tượng Mẫu thì đó là Mẫu Thượng Ngàn(ở bên phải), Mẫu Liễu (ở chính giữa) và mẫu Thoải (ở bên trái).

Ba pho tượng này đều tạc hình một phụ nữ, đẹp, phúc hậu, ngồi ở tư thế thiền, chân xếp bằng và hai tay chắp. Sự khác nhau chỉ là ở những bộ trang phục.

Ở đây chỉ xin nói đến truyền thuyết của một mẫu. Đó là Mẫu Thượng Ngàn. Mẫu Thượng Ngàn được mang trang phục màu xanh. Cũng có người gọi Mẫu là Bà Chúa Thượng Ngàn.

Mẫu là con gái của Sơn Tinh (tức Tản Viên Sơn Thánh) và công chúa Mỵ Nương (trong truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh cùng cầu hôn Mỵ Nương, con gái vua Hùng).

Khi còn trẻ, Mẫu là một cô gái đức hạnh, lại tài sắc vẹn toàn, được cha mẹ đặt tên là La Bình.

La Bình thường được cha cho đi cùng, đến khắp mọi nơi, từ miền núi non hang động đến miền trung du đồi bãi trập trùng. Trong địa hạt mà Tản Viên Sơn Thánh cai quản, Ngài đã dạy dân không thiếu điều gì, từ săn bắn thú dữ đến chăn nuôi gia súc, từ trồng cây ăn quả, trồng lúa nương đến việc đắp ruộng bậc thang, trồng lúa nước ...Rồi dựng nhà dựng cửa, hái cây thuốc chữa bệnh ...

Ngài cũng thường dùng các vị Sơn thần, Tù trưởng luận đàm thế sự và bàn soạn công việc ...

Do luôn luôn được theo cha như thế nên La Bình cũng học hỏi được rất nhiều điều. Vốn thông minh sáng dạ, lại chăm chỉ thực hành nên việc gì La Bình cũng biết, cũng giỏi. Những khi Sơn Thánh bận việc hay không thể đi khắp những nơi mà dân chúng cần đến thì La Bình thường được cha ủy nhiệm đi thay. Những lần như thế, La Bình luôn tỏ ra là một người đầy bản lĩnh, biết tự chủ trong giao tiếp, lại cũng biết thành thạo trong mọi công việc.

Các Sơn thần, Tù trưởng đặc biệt quý trọng nàng, coi nàng là người đại diện xứng đáng của Sơn Thánh chủ tướng. Còn bản thân nàng, chẳng những hòa hợp, ân cần với mọ người, mà còn rất thân thuộc, quyến luyến với phong cảnh, từ cây cỏ hoa lá đến hươu nai chim chóc ...

Khi Tản Viên và Mỵ Nương, theo lệnh của Ngọc Hoàng Thượng đế, về trời, trở thành hai vị thánh bất tử, thì Ngài cũng phong La Bình là Công chúa Thượng Ngàn, thay cha đảm nhận công việc dưới trần, nghĩa là trông coi tất cả 81 cửa rừng và các miền núi non hang động, các miền trung du đồi bãi trập trùng của nước Nam ta ...

Trở thành chúa tể của miền núi non và trung du, Thượng Ngàn công chúa vẫn luôn luôn chăm chỉ, hàng ngày hết sức làm tròn các trọng trách của mình. Ngài bảo ban các loài cầm thú phải biết sống hòa hợp với nhau. Dạy chúng đừng ăn những loài quả độc, nấm độc, biết tránh khỏi những cây cối đổ, những cơn lũ quét ...

Ngài dạy bảo con người cũng thật chu đáo, tỉ mỉ. Những gì cha Ngài đã dạy, Ngài đều đem ra áp dụng. Khi tiếp xúc với các Tù trưởng, Ngài cũng học thêm ở họ được nhiều điều. Thế là Ngài lại đem những điều hiểu biết mới đi truyền bá ra mãi.

Ngài cải tiến và hoàn thiện thêm những gì mà trước kia, ở cha Ngài chỉ mới bắt đầu. Làm nhà không những đã chắc chắn, lại còn phải biết trạm trổ cho thật đẹp đẽ. Ở mũi các thuyền độc mộc cũng thế, có khắc cả hình hai đầu rồng chạm hẳn vào nhau. Cách nấu nướng thức ăn,chẳng những chỉ có kho, luộc mà còn chế thêm ra được nhiều món mới.

Rồi công việc đồng áng, Ngài dạy mọi người cách lấy ống bương để dẫn nước từ khe núi xuống. Lại đi phân phát hạt giống, cho nên nơi nào cũng có cơm dẻo nếp thơm.

Trong các con vật nuôi trong nhà, Ngài đem về thêm nhiều giống gia súc mới. Lại trồng thêm nhiều giống cây ăn quả. Rồi trồng cả những hoa thơm cỏ lạ lấy từ trên rừng núi về ...

Công lao của Ngài đối với dân chúng thực không kể sao cho hết. Ngọc Hoàng Thượng đế còn ban tặng cho Ngài thêm nhiều phép thuật thần thông, đi mây về gió, và trở thành vị Thánh bất tử để luôn luôn gần gũi, gắn bó với cõi trần, vĩnh viễn ở miền trung du và núi non hùng vĩ.

Khi dân chúng sinh sôi nảy nở ra thêm, từ miền núi non và trung du tràn xuống các miền đồng bằng và ven biển, đã mang theo những cách thức làm ăn và phong tục tập quán từ hồi còn ở trong rừng, dưới sự bảo ban dìu dắt của Công chúa Thượng Ngàn.

Cùng với nhiều vị thần thánh khác, Công chúa Thượng Ngàn vẫn ngày đêm lặng lẽ âm phù cho sự bình yên của mọi người dân nước Việt. Và thật là tự nhiên, khi mọi người đều gọi Ngài là Mẫu, một cách vừa trìu mến gần gũi mà cũng vừa tôn kính.

Lịch sử nước Việt từ các thời về trước, đã từng ghi lại các chiến công âm phù lừng lẫy của Ngài.

Tướng sĩ của nhà Lý đánh quân Tống, tướng sĩ nhà Trần đánh quân Nguyên, đều có Ngài âm phù. Các triều đại này, sau khi thắng lợi đều có lễ tạ ơn và có sắc thượng phong cho Ngài.

Lại đến đầu hồi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, lúc ấy lực lượng nghĩa quân còn yếu, đang đồn trú ở Phản Ấm thì giặc Minh kéo đến bao vây. Nghĩa quân người ít chống cự không nổi, phải tan tác mỗi người mỗi nơi. Trong đêm tối, Công chúa Thượng Ngàn đã hóa phép thành bó đuốc lớn, soi đường cho quân sĩ, tập hợp và dẫn dắt họ đi vào đất Mường Yên, về cơ sở núi Chí Linh. Ánh đuốc thiêng của Ngài, chỉ quân sĩ của ta biết được, còn quân giặc thì không thể nào nhìn thấy.

Ở Chí Linh, nghĩa quân vừa sản xuất, vừa tập luyện và tập hợp, phát triển thêm lực lượng. Thật gian khổ, lắm phen không còn lương thực, phải lấy củ nâu củ mài thay cơm, nhưng nhờ sự che chở của Công chúa Thượng Ngàn, quân ta vẫn ngày một thêm lớn mạnh. Quân Minh nhiều lần đến bao vây cũng đành phải chịu rút về. Từ Chí Linh, quân ta tiến vào giải phóng Nghệ An, Thuận Hóa. Sau đó,với những trận thắng oanh liệt, ở Tốt Động, ở Chi Lăng, và cuối cùng, bao vây bức hàng quân giặc ở Đông Quan,đã giải phóng hoàn toàn đất nước.

Sau chiến thắng vẻ vang, Nguyễn Trãi thay lời Lê Lợi, viết bản Bình Ngô đại cáo, tổng kết lại cuộc chiến tranh. Trong bản Bình Ngô có câu: "Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần", là nhắc lại thời nghĩa quân ở núi Chí Linh, tuy gian lao vất vả nhưng vẫn bảo toàn được lực lượng, vì đã được sự âm phù, che chở của Công chúa Thượng Ngàn.

Công chúa Thượng Ngàn, cũng như bao nhiêu vị thần thánh được mọi người tôn thờ, chính là hồn thiêng của sông núi, bao nhiêu đời nay dẫn dắt con cháu vững bước đi lên.

Ngài có mặt ở khắp nơi, theo bước chân của dân chúng, khi từ miền rừng núi rồi xuống miền đồng bằng.Vì vậy, ở nơi nào dân chúng cũng lập điện thờ, thờ phụng Ngài.

Tuy nhiên, đại bản doanh của Ngài vẫn là vùng núi non và các cửa rừng. Những người đi rừng, muốn bình yên, mọi sự tai qua nạn khỏi, thường cầu xin sự che chở, phù trợ của Ngài. Ai muốn săn bắt hay khai thác thứ gì trong rừng, cũng đặt lễ, thắp hương, cầu xin để được Ngài chấp thuận.