Thứ Hai, 5 tháng 10, 2020

Mẫu Thượng Ngàn - huyền tích và hiện thân qua các nhân vật cụ thể

 


Lâm Cung Thánh Mẫu (林宮聖母) hay Mẫu Thượng Ngàn hoặc Bà Chúa Thượng Ngàn là một trong ba vị mẫu được thờ cúng tại đền phủ thờ mẫu của người Việt. Bà được hình tượng là một phụ nữ đẹp, phúc hậu và mang trang phục màu xanh khi được đặt ngang hàng cùng Mẫu Liễu Hạnh và Mẫu Thoải hoặc được thờ riêng trong một điện thờ Sơn Trang. Việc thờ phụng Mẫu Thượng Ngàn là một đặc điểm của tín ngưỡng gắn liền với tục thờ rừng núi của người Việt. Bà là nhân vật mang tính truyền thuyết và đóng vai trò quan trọng trong tín ngưỡng hầu bóng tam phủ hay tứ phủ.
Tương truyền Mẫu Thượng Ngàn là con của Vua Trời Đế Thích, tính tình thẳng thắn cương trực nên bà được Thượng Đế giao cai quản núi rừng cõi trời Nam Giao. quyền hành các chúng sơn Thần. Khi giáng trần bà dạy người dân trồng, săn bắn, Bà hiển hóa bảo hộ muôn dân. Vì thế người việt nói chung và các dân tộc thiểu số miền núi nói riêng đều hết lòng tôn kính và lập đền thờ bà ở các cửa rừng và những nơi bà hiện thân.

Vào những buổi đầu dựng nước kỷ Hồng Bàng,  có một loài Mộc Tinh chuyên hại người. Sau khi bị Lạc Long Quân đánh đuổi thì Mộc Tinh chạy về hướng Tây Nam, tại đây nó vẫn giở trò cũ thường xuyên bắt dân trong vùng làm lễ tế người. Thấy vậy Mẫu Thượng Ngàn  đích thần hạ phàm tiêu diệt, đáng tiếc mỗi lần Mẫu Thượng Ngàn tìm đến thì Mộc Tinh đã kịp bỏ đi trước. Vậy nên lần này Thánh Mẫu bèn hóa thành một cô gái xinh đẹp để trở thành vật hiến tế hòng bắt được con quỷ này. Quả đúng như dự đoán Mộc Tinh đã xuất hiện dưới hình dạng một con hổ trắng. Nó vừa xông tới định ăn thịt con mồi thì bị Mẫu Thượng Ngàn chặt mất đầu nên hiện nguyên hình là một cái cây khô có cành lá làm từ xương và thịt người. Khi Thánh Mẫu định vung rìu đốn hạ cây thì Mộc Tinh liền vội vàng xin tha mạng. Nó hứa rằng từ nay sẽ không ăn thịt người nữa và tặng bà một hạt giống thần. Nó bảo chỉ cần trồng hạt giống thần kì này xuống đất thì sẽ mọc ra tất cả loại quả ngon hoa lạ trên đời này. Vừa dứt lời Mộc Tinh liền biến mất. Mẫu Thượng Ngàn bèn đem hạt giống này về trồng, sau một đêm nó lớn thành một cái cây to thật là to, ngọn cây cao tận trời xanh, cành lá xum xuê che phủ một góc trời. Mỗi ngày nó đều mọc ra hàng trăm thứ hoa quả khác nhau ăn mãi không hết. Bà đem những loại quả này giao cho trưởng làng để ông có thể chia cho gia đình những người đã bị Mộc Tinh làm hại. Ngờ đâu con gái trưởng làng lại là người tham lam quyết giữ hết những món ngon vật lạ kia cho riêng mình. Mẫu Thượng Ngàn biết chuyện giận lắm liền làm phép biến cô ta thành con ruồi để suốt phần đời còn lại chỉ có thể ăn đồ thừa của con người.

Hùng Vương thứ IX là một vị vua anh minh, thương dân như con nào ngờ trong một lần đi săn, ông vô tình bị Mộc Tinh ăn thịt. Nó nhân cơ hội này dùng phép hóa thành nhà vua để cai trị nước Văn Lang. Mẫu Thượng Ngàn biết chuyện này có một phần là lỗi của mình nên đã tự nguyện chịu tội. Vua Trời bèn đày nàng làm con gái Mộc Tinh để sửa sai. Khi sinh bà ra, hoàng hậu đau quá phải vịn vào cành quế mới sinh hạ được bà nên mới đặt tên cho bà là Quế Hoa công chúa. Lớn lên, Quế Hoa luôn nhớ thương mẹ nên đã đi vào rừng sâu để tìm dấu vết người mẹ hiền đã mất. Nàng được ông Bụt ban cho phép thuật nên đã cùng mười hai thị nữ ra sức tu tiên luyện đạo, cứu giúp dân lành. Lúc bấy giờ đất nước Văn Lang rơi vào cảnh loạn lạc thù trong giặc ngoài do cha bà thường xuyên gây chiến với các nước làng giềng, tìm thú vui từ việc ăn thịt những kẻ chống đối mình. Chiến thanh liên miên khiến máu chảy thành sông, xương chất cao như núi, lòng dân óan hận thấu tận trời cao còn những người ra sức can ngăn nhà vua đều bị ông giết hại cả. Công chúa Quế Hoa quyết định ra tay diệt trừ kẻ gây ra cảnh đau khổ lầm than này dù rằng người đó có là cha nàng. Trong một buổi tiệc của nhà vua và các Lạc tướng, Quế Hoa đã xin được cùng mười hai thị nữ đánh đàn nhảy múa góp vui cho mọi người. Điều đặc biệt là chiếc đàn của nàng chỉ có duy nhất một dây khiến mọi người xung quanh đều tò mò thích thú. Khi tiếng đàn của công chúa vừa cất lên thì ai nấy đều cảm thấy thư thái, mọi âu lo đều bị quên lãng, thời gian trôi qua nhanh lúc nào không hay. Tới đêm thứ ba khi tiếng đàn vừa dứt thì Hùng Vương đã hiện nguyên hình thành một con hổ khiến mọi người hoảng loạn bỏ chạy. Mộc Tinh liền xông về phía Quế Hoa định ăn thịt nàng nhưng lần này nó đã dừng lại ngay trước mặt nàng vì dù hổ dữ cũng không thể ăn thịt con mình. Công chúa làm phép hóa dây đàn thành một sợi xích lớn buộc quanh cổ con hổ rồi dẫn nó theo mình. Từ đó về sau Quế Hoa dạy người dân cách trồng trọt, làm nương rẫy, xây nhà, chăn nuôi và săn bắt thú dữ, còn mười hai thị nữ của bà thì trở thành các bà mụ chăm lo việc sanh đẻ của người dân để không ai phải chịu nỗi đau mất mẹ vì sanh khó giống như bà nữa. Riêng con hổ bà mang theo bên mình thì được bà dùng để trừng phạt lũ tội phạm gian ác đã làm hại dân lành. Khi nhân dân các bản mường đã có cuộc sống no ấm, Mỵ Nương Quế Hoa cùng 12 thị nữ bay về trời trên đám mây ngũ sắc. Từ đó về sau bà được người dân tôn thờ làm Bà Chúa Thượng Ngàn cai quản vùng rừng núi còn mười hai thị nữ trở thành Mười hai Bà Mụ cai quản việc sinh đẻ của trần gian.

Một lần khi đang đi dạo trong rừng, Mẫu Thượng Ngàn và mười hai bà mụ phát hiện thấy bên gốc cây có xác một đứa trẻ chỉ còn lại bộ xương khô. Tiếc thương vì cậu bé đã chết khi còn quá nhỏ nên Mẫu Thượng Ngàn đã dùng phép hòa lẫn xương cậu cùng gan hùm, tay gấu, ruột ngựa, mắt phượng, chân voi cùng quả tim của bà để hồi sinh cậu. Mẫu vốn không có con cái gì, lại thấy cậu bé lanh lợi nên đã quyết định nhận cậu làm con nuôi, đặt tên là Sơn Tinh, giao cai quản vùng núi Ba VìMột số dị bản đề cập rằng bà mất trong cuộc chiến giữa Sơn TinhThủy Tinh. Sau khi mất thì bà trở lại Thiên giới nhưng vì quá thương con nên bà đã xin thượng đế được phép trở lại trần gian. Ngọc Hoàng đồng ý bèn cho bà được đầu thai trở lại làm người tích đủ phước đức luân hồi thì mới có thể ở bên con trai mình lần nữa.

Sau khi tích đủ phước đức thì Ngọc Hoàng đã cho phép bà trở thành con gái của Sơn Tinh và Mỵ Nương Ngọc Hoa (chữ Hán: 媚娘玉花) trong truyền thuyết Sơn Tinh - Thủy Tinh (Mỵ Nương là danh hiệu gọi con gái của Hùng Vương, tương tự như "Hoàng Nữ" hoặc Công Chúa"). Khi còn trẻ, Mẫu là một cô gái đức hạnh, lại tài sắc vẹn toàn, được cha mẹ đặt tên là La Bình. Sinh thời La Bình thường được cha cho đi cùng, đến khắp mọi nơi, từ miền núi non hang động đến miền trung du đồi bãi trập trùng. Trong địa hạt mà Tản Viên Sơn Thánh cai quản, ông đã dạy dân không thiếu điều gì, từ săn bắn thú dữ đến chăn nuôi gia súc, từ trồng cây ăn quả, trồng lúa nương đến việc đắp ruộng bậc thang, trồng lúa nước v.v. hay dựng nhà dựng cửa, hái cây thuốc chữa bệnh. Ông cũng thường cùng các vị sơn thần, tù trưởng luận đàm thế sự và bàn soạn công việc. Do luôn luôn được theo cha như thế nên La Bình cũng học hỏi được rất nhiều điều. Vốn thông minh sáng dạ, lại chăm chỉ thực hành nên việc gì La Bình cũng biết, cũng giỏi. Những khi Sơn Thánh bận việc hay không thể đi khắp những nơi mà dân chúng cần đến thì La Bình thường được cha cho đi thay. Những lần như thế, La Bình luôn tỏ ra là một người đầy bản lĩnh, biết tự chủ trong giao tiếp, lại cũng biết thành thạo trong mọi công việc. Các sơn thần, tù trưởng đặc biệt quý trọng nàng, coi nàng là người đại diện xứng đáng của Sơn Thánh. Còn bản thân nàng, chẳng những hòa hợp, ân cần với mọi người, mà còn rất thân thuộc, quyến luyến với phong cảnh, từ cây cỏ hoa lá đến hươu nai chim chóc...

Khi Sơn Thánh và Mỵ Nương, theo lệnh của Thượng đế trở về trời thành hai vị thánh bất tử thì La Bình cũng được phong là công chúa Thượng Ngàn, thay cha đảm nhận công việc dưới trần, nghĩa là trông coi tất cả cửa rừng và các miền núi non hang động, các miền trung du đồi bãi trập trùng của nước Nam.

Trở thành chúa tể 36 bộ châu của miền núi non và trung du, công chúa Thượng Ngàn vẫn luôn luôn chăm chỉ, hàng ngày hết sức làm tròn các trọng trách của mình. Bà bảo ban các loài cầm thú phải biết sống hòa hợp với nhau, dạy chúng đừng ăn những loài quả độc, nấm độc, biết tránh khỏi những cây cối đổ, những cơn lũ quét...

Bà dạy bảo con người cũng thật chu đáo, tỉ mỉ. Những gì cha bà đã dạy, bà đều đem ra áp dụng. Khi tiếp xúc với các tù trưởng, bà cũng học thêm ở họ được nhiều điều. Thế là bà lại đem những điều hiểu biết mới đi truyền bá ra mãi.

Bà cải tiến và hoàn thiện thêm những gì mà trước kia, ở cha bà mới chỉ là bắt đầu. Làm nhà không những đã chắc chắn, lại còn phải biết chạm trổ cho thật đẹp đẽ. Ở mũi các thuyền độc mộc cũng thế, có khắc cả hình hai đầu rồng chạm hẳn vào nhau. Cách nấu nướng thức ăn, chẳng những chỉ có kho, luộc mà còn chế thêm ra được nhiều món mới. Rồi công việc đồng áng, bà dạy mọi người cách lấy ống bương để dẫn nước từ khe núi xuống. Lại đi phân phát hạt giống, cho nên nơi nào cũng có cơm dẻo nếp thơm. Trong các con vật nuôi trong nhà, bà đem về thêm nhiều giống gia súc mới. Lại trồng thêm nhiều giống cây ăn quả. Rồi trồng cả những hoa thơm cỏ lạ lấy từ trên rừng núi về...

Lão Tổ còn truyền dạy cho bà đạo pháp tu tiên đắc đạo Hồng Bàng Chân Nhân lại có thêm nhiều phép thuật thần thông, đi mây về gió, và trở thành Nữ Thần luôn luôn gần gũi, gắn bó với cõi trần, vĩnh viễn ở miền trung du và núi non hùng vĩ. Khi dân chúng sinh sôi nảy nở ra thêm, từ miền núi non và trung du tràn xuống các miền đồng bằng và ven biển, đã mang theo những cách thức làm ăn và phong tục tập quán từ hồi còn ở trong rừng, dưới sự bảo ban dìu dắt của công chúa Thượng Ngàn.

Đôi khi Mẫu Thượng Ngàn cũng được hiểu chính là người Mẹ của Đức Thánh Tản Viên, theo cách hiểu này thì Đền thờ Mẫu Thượng Ngàn tại Đền Mẫu Đợi ở làng Dụ Đại xã Đông Hải huyện Quỳnh Phụ tỉnh Thái Bình để tưởng nhớ công ơn của Mẫu Ma Thị Cao Sơn - người mẹ có công ơn nuôi dưỡng Đức Thánh Tản Viên.


Lần thứ 2 bà giáng sinh vào cửa nhà Lệnh tộc nhiều đời làm tù trưởng trên đất Yên Bái. Sau đó nhiều lần bà hiển linh là Cao Quan Đại Vương, dạy dân trồng trọt, làm ăn, lên rẫy làm nương, đi rừng, làm ruộng bậc thang nên được nhân dân suy tôn là Bạch Anh Trưởng Quản Đỉnh Thượng Cao Sơn Thần Nữ Cao Mường Sơn Triều. Sau này bà lại hiển linh giúp vua Lê Thái Tổ dẹp giặc Liễu Thăng nên được gia phong là Lê Mại Đại Vương. Tại đất Đông Cuông bà hiện thân với tên húy là Lê Thị Kiểm. Bà là vợ của ông Hà Văn Thiên hậu duệ của Hà Đặc, Hà Bổng (trại chủ Quy Hóa) bị hi sinh trong chiến tranh chống quân Nguyên. Ông bà sinh hạ được một người con trai gọi là Hoàng Báo. Dân lập miếu thờ ông bên Ghềnh Ngai (hữu ngạn sông Hồng) và thờ bà và con trai tại đền Đông Cuông (Đông Quang) bên tả ngạn, đối diện với miếu. Một người mẹ núi Rừng chung chung, đến đây đã được lịch sử hóa, gắn với lai lịch cụ thể của một con người trần thế.

Người ta cho rằng các chiến công quân sự của nhiều triều đại Việt Nam đều có sự phù hộ của bà. Vì thế, các triều đại này, sau khi thắng lợi đều có lễ tạ ơn và có sắc thượng phong cho bà là Thánh Mẫu.

Một truyền thuyết cho rằng hồi đầu thời kỳ khởi nghĩa Lam Sơn, lúc ấy lực lượng nghĩa quân còn yếu, đang đồn trú ở Phản Ấm thì quân Minh kéo đến bao vây. Nghĩa quân người ít chống cự không nổi, phải tan tác mỗi người mỗi nơi. Trong đêm tối, Mẫu Thượng Ngàn đã hóa phép thành bó đuốc lớn, soi đường cho quân sĩ, tập hợp và dẫn dắt họ đi vào đất Mường Yên, về cơ sở núi Nghĩa Lĩnh. Ánh đuốc thiêng của bà, chỉ quân sĩ của Lê Lợi biết được, còn quân Minh không thể nào nhìn thấy. 

Ở Chí Linh, nghĩa quân vừa sản xuất, vừa tập luyện và tập hợp, phát triển thêm lực lượng. Thật gian khổ, lắm phen không còn lương thực, phải lấy củ nâu củ mài thay cơm, nhưng nhờ sự che chở của công chúa Thượng Ngàn, quân đội của Lê Lợi vẫn ngày một thêm lớn mạnh. lập lại hòa bình cho nước Việt.

Thánh Mẫu Thượng Ngàn, cũng như nhiều vị thần thánh khác, được nhiều người tôn thờ, và chính là hồn thiêng của sông núi, bao nhiêu đời nay dẫn dắt con cháu vững bước đi lên. Bà có mặt ở khắp nơi, theo bước chân của dân chúng, khi ở miền rừng núi rồi xuống miền đồng bằng. Vì vậy, ở nhiều nơi người dân lập đền thờ phụng bà. Tuy nhiên, đại bản doanh của bà vẫn là vùng núi non và các cửa rừng. Những người đi rừng, muốn được bình yên, vạn sự tai qua nạn khỏi, thường đến cầu xin sự che chở, phù trợ của bà. Ai muốn săn bắt hay khai thác thứ gì trong rừng, cũng đặt lễ, thắp hương, cầu xin để được bà chấp thuận.