Thứ Bảy, 17 tháng 3, 2012
Hoàng Bát Nùng
Về lịch sử ông Bát Nùng tên thật là Nùng Chí Cao, sống vào thế kỷ 11 ở châu Quảng Nguyên nay thuộc tỉnh Cao Bằng
khi về đồng ông mặc áo chàm đen, làm lễ tấu hương, khai quang, múa cờ - kiếm rồi múa võ mèo ...
Đền chính của ông là Đền Kỳ Sầm ngay gần thị xã Cao Bằng, các bản hội lên đất này rất hay hầu giá ông để cầu công danh, ban tài tiếp lộc.
Tiệc chính là 10/1 âm lịch hàng năm.
Nùng Trí Cao một nhân vật lịch sử ở Cao Bằng đã có một thời oanh liệt, đánh tan giặc Tống xâm lược nước ta, được lưu danh trong nhân dân, trong sử sách; nhân dân tôn sùng lập đền thờ ở nhiều nơi trong tỉnh.
Nùng Trí Cao sinh năm 1024 ở động Tượng Cần (Làng Gia Cung – Thị Xã Cao Bằng) châu Quảng Nguyên; con thủ lĩnh Nùng Tôn Phúc và bà A Nùng. Thời vua Lý Thái Tông (1028–1054) vua Lý, đại thần, tướng lên Quảng Nguyên 5 lần, trong đó lần thứ 2 năm Tân Tỵ ( 1041 ) vua cử một tướng ẩn danh lên thuyết phục được Nùng Trí Cao không theo nhà Tống. Vua cho Trí Cao cai trị châu Quảng Nguyên và 4 động là: Lôi Hòa, Bình, Bà và Châu Tư Lang. Trí Cao được về kinh đô Thăng Long học. Ngày 01/9/1042 năm Nhâm Ngọ, vua cử Ngụy Trang lên Quảng Nguyên ban cho Trí Cao chức Thái Bảo và đô ấn; Năm 1053, chỉ huy sứ Vũ Nhị đem quân lên cứu viện Trí Cao.
Theo truyền miệng, Trí Cao được viên tướng ẩn danh bảo lãnh đưa về kinh đô ăn học 3 năm, từ năm 17 tuổi đến năm 20 tuổi. Gia đình vị tướng hết sức giúp đỡ Trí Cao. Nùng Trí Cao vốn thông minh, vạm vỡ, khôi ngô, tuấn tú, được học kinh sử, mở mang trí tuệ, mở rộng tầm nhìn. Ở Thăng Long Trí Cao thường đi lại nhà vị tướng ân nhân của mình và thường trò chuyện thân thiết với cô con gái xinh đẹp, nết na của Ông. Dần dà, Trí cao đã làm rung động trái tim người con gái kinh đô. Trai tài, gái sắc yêu nhau say đắm, vị tướng đã đồng tình gửi con gái cho. Người con gái đó thường gọi là nàng Cầm, gia đình nàng gia giáo, nền nếp; người anh cả là một tướng quân nối nghiệp cha, có tài thao lược, dụng bình giỏi, một người nhân nghĩa có chí khí. Trong chiến dịch đi theo anh vợ đánh giặc “Gió sóng” (tức là giặc theo gió, theo sóng trên biển vào cướp phá miền duyên hải phía nam năm 1043), Trí Cao học đuợc phép bầy binh bố trận và lấy uy, lấy đức thu phục nhân tâm.
Khi Trí Cao ở Thăng Long, mẹ là A Nùng ở quê hương Quảng Nguyên đã dạm hỏi cô Đoạn Hồng Ngọc đang tuổi dạy thì là hoa khôi xinh đẹp, con nhà gia thế ở làng bên thuộc động Xuân Phách (nay là Bản Ngần, xã Vĩnh Quang ), sau một năm làm lễ cưới chú rể vắng mặt. Trí Cao không yêu, chỉ coi Đoạn Hồng Ngọc như bạn quen biết gần làng, song mẹ chàng coi là con dâu chính. Nàng Cầm theo chồng về quê Quảng Nguyên. Trong 10 năm ( 1043- 1053 ), nàng sinh được hai con trai là Nùng Kế Tông và Nùng Kế Phong.
Nàng Cầm là sợi dây liên lạc nối kinh đô vua Lý với vùng đất biên cương xa xôi này. Nàng được chồng yêu thương đằm thắm. Song điều này làm cho nàng trở thành cái gai trước mặt mẹ chồng và cô vợ cả Đoạn Hồng Ngọc. Nỗi bất hòa xảy ra thường xuyên và lớn dần. Mẹ chồng hắt hủi, bắt con dâu chứng minh cái thai có đúng là cháu bà không? Bà thường chê bai cách nấu nướng không hợp khẩu vị, không vừa ý với cách cư xử, giao thiệp của nàng Cầm; vợ cả bị chồng lạnh nhạt sinh lòng ghen tuông, nên trong lúc cả giận mất khôn, đã nhẹ dạ chạy sang hàng ngũ địch. Quân Tống tràn sang Quảng Nguyên cướp phá, bắt giết nhân dân, trong đó có cả gia đình Đoạn Hồng Ngọc, Vương Lan Anh bị giết hết. Căm giận quân cướp nước “Hận thù nhà, trả thù nhà” Đoạn Hồng Ngọc, Vương Lan Anh lại quay về chống trả giặc Tống, trở thành nữ tướng của Trí Cao. Đoạn Hồng Ngọc biết lỗi lầm nay cải tà quy chính, nên ngày nay tại miếu Linh Ấn tức Đền Kỳ Sầm thờ Kỳ Sầm đại vương Nùng Trí Cao ở Bản Ngần (xã Vĩnh Quang, huyện Hoà An), họ Đoạn ở Xuân Phách vẫn đến tế lễ, sau tuần tế của họ Nùng.
Năm 1052, nhà Tống thấy đất Quảng Nguyên có nhiều khoáng sản quý, sai viên Kinh lược Ung châu là Tôn Tú đem quân xâm lược nước ta. Tháng 4 âm lịch năm 1052, Trí Cao nổi dậy đánh bật quân Tôn Tú ra khỏi bờ cõi, thừa thắng đánh chiếm các châu trên đất Tống. Trước sự tấn công như vũ bão của Trí Cao, vua Tống Nhân Tôn lo sợ, cử năm hổ tướng đứng đầu là nguyên soái Tống Địch Thanh đánh bật quân Trí Cao. Trận quyết chiến đẫm máu ở Tổng Quỷ (cánh đồng ma giáp biên giới huyện Phục Hoà), Trí Cao bị thương, nhờ có anh vợ (ẩn danh) tiếp ứng Trí Cao mới thoát chết. Quân giặc rất đông và hung hãn, quân Trí Cao bị thương vong nhiều, song tướng quân ẩn danh vẫn đốc quân xung trận và đã hy sinh anh dũng tại trận. Trong lúc rối loạn, quân sỹ vội vàng vùi qua loa thi thể ông tại Ngườm Pục (là hang vùi trên đường lui quân từ Cách Linh lên xã Chí Thảo, huyện Quảng Uyên) sau khi lập chợ Háng Riềng (chợ Cách Linh) nhân dân xây miếu thờ ông. Thời Nguyễn có sắc phong, ông coi đền được xem sắc phong còn nhớ rõ chữ thờ ông tướng họ Trần, nay gọi là đền Quan Chẻng (chánh). Trong trận chiến ác liệt ở Tổng Quỷ, nước sông lên to, quân sỹ hai bên chết trôi, nước sông Bắc Vọng đục ngầu pha lẫn máu. Nàng Cầm nhảy xuống sông tham chiến bị địch bắt kéo đi mất, ngày nay nơi đó gọi là Hắt Pắt (ngầm nàng Cầm bị bắt). Trí Cao nhờ con ngựa thiên lý mã Long Cư bơi qua sông gặp mẹ và anh vợ họ Trần mới biết, do chủ trương của mẹ không cho quân miền xuôi tiếp viện. Trí Cao cùng gia quyến lặng lẽ ra đi men theo biên giới Đồng Mu, Bảo Lạc chuyển qua Đại Lý. Sau khi Trí Cao mất, dân chúng tìm thấy ấn Thái Bảo để lại, nên lập miếu thờ ở đỉnh Khau Sầm, về sau miếu rời xuống chân núi cạnh làng Bản Ngần. Triều Lý sắc phong “Kỳ Sầm đại vương”. Thời Nguyễn phong tiếp “Kỳ Sầm biên tái, bảo quốc an dân, phúc thần”. Đền Kỳ Sầm mở hội tế lễ vào ngày mùng 10 tháng Giêng âm lịch. Đền được xếp hạng là Di tích lịch sử văn hoá cấp Quốc gia.
Chuyện tình Thái Bảo Nùng Trí Cao nói lên sự liên kết giữa nhà Lý với Nùng Trí Cao, nêu lên công lao Nùng Trí Cao đánh tan quân xâm lược nhà Tống bảo vệ bờ cõi phía bắc của Tổ quốc, mà dấu ấn còn ghi đậm nét trong tâm tư, tình cảm của nhân dân các dân tộc Cao Bằng. Nhân dân Cao Bằng tự hào có vị Thái Bảo Nùng Trí Cao với chuyện tình đoàn kết giữa người miền xuôi, miền ngược.
Đăng ký:
Đăng Nhận xét
(
Atom
)
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét